Nghệ Thuật Mô Tả Nhân Vật Trong Truyện Kiều Bao Gồm 5 Mẫu Văn Hay, Đặc Sắc Nhất, Giúp Học Sinh Lớp 9 Hiểu Rõ Hơn Về Nghệ Thuật Mô Tả Nhân Vật Trong Tác Phẩm Của Nguyễn Du.
Truyện Kiều Không Chỉ Thành Công Về Nội Dung Và Tư Tưởng Mà Còn Được Khẳng Định Bởi Chính Tài Năng Xây Dựng Nhân Vật Tài Tình Của Đại Thi Hào Nguyễn Du. Qua Đó, Giúp Người Đọc Hình Dung Rõ Bản Chất Và Tính Cách Bên Trong Của Nhân Vật. Mời Các Em Cùng Theo Dõi Bài Viết Dưới Đây Của Mytour Để Ngày Càng Học Tốt Môn Văn 9:
Dàn Ý Về Nghệ Thuật Mô Tả Nhân Vật Trong Truyện Kiều
1. Phần Mở Đầu:
- Giới Thiệu Về Tác Phẩm: Truyện Kiều Là Một Tác Phẩm Văn Học Mang Đầy Giá Trị, Được Truyền Đạt Qua Các Thế Hệ.
- Giới Thiệu Về Nghệ Thuật Mô Tả Nhân Vật: Nghệ Thuật Mô Tả Nhân Vật Là Một Trong Những Điểm Sáng. Qua Những Trích Đoạn Được Học Trong Chương Trình Văn 9 Học Kì 1 Như “Chị Em Thúy Kiều”, “Cảnh Ngày Xuân”, “Mã Giám Sinh Mua Kiều”, “Kiều Ở Lầu Ngưng Bích” Đã Phần Nào Chứng Minh Điều Đó.
2. Phần Thân Bài:
a. Nghệ Thuật Mô Tả Ngoại Hình Nhân Vật:
* Thủ Pháp Ước Lệ Tượng Trưng: Đây Là Thủ Pháp Mô Tả Được Sử Dụng Trong Văn Học Trung Đại, Lấy Vẻ Đẹp Của Thiên Nhiên Để Tả Vẻ Đẹp Của Con Người. Thiên Nhiên Là Trung Tâm, Là Chuẩn Mực Của Cái Đẹp.
- Trong Đoạn Trích “Chị Em Thúy Kiều”: Giới Thiệu Chị Em Thúy Kiều: “Đầu Lòng Hai Ả Tố Nga”, “Mai Cốt Cách Tuyết Tinh Thần” – Mĩ Từ Ca Ngợi 2 Cô Gái Đẹp Người Đẹp Nết.
- Tả Thúy Vân: Dùng Hình Ảnh Mây, Tuyết, Hoa, Ngọc Để Nói Về Vẻ Đẹp Trong Sáng, Hiền Hậu, Đoan Trang Của Vân.
- Tả Thúy Kiều: Dùng Hình Ảnh “Làn Thu Thủy, Nét Xuân Sơn” Để Tả Vẻ Đẹp Đôi Mắt Của Kiều, Ca Ngợi Tài Năng Của Kiều “Vốn Tính Trời”, “Nghề Riêng Ăn Đứt Hồ Cầm Một Chương”.
- Trong Đoạn Trích “Mã Giám Sinh Mua Kiều”, Tác Giả Dùng Hình Ảnh Hoa Để Tả Kiều: “Lệ Hoa Mấy Hàng”, “Nét Buồn Như Cúc Điệu Gầy Như Mai”, Vừa Tả Người Đẹp, Vừa Thể Hiện Nỗi Tủi Nhục Khi Phải Bán Mình Chuộc Cha.
- Trong Đoạn Trích Cảnh Ngày Xuân”: Tả Nam Thanh Nữ Tú Đi Hội Đạp Thanh Là “Yến Anh”, “Tài Tử”, “Giai Nhân”, Vẻ Đẹp Của Con Người Hòa Với Cảnh Sắc Thiên Nhiên, Khiến Thiên Nhiên Thêm Sinh Động.
⇒ Nhận Xét:
- Về Ngôn Ngữ: Tác Giả Sử Dụng Ngôn Từ Trang Trọng, Mĩ Miều, Hình Ảnh Tươi Đẹp, Trong Sáng.
- Hình Ảnh: Lựa Chọn Những Hình Ảnh Đẹp Trong Tự Nhiên.
- Qua Miêu Tả Thấy Được Tuyến Nhân Vật Chính Diện, Cho Thấy Tình Cảm Yêu Mến, Ngưỡng Mộ Của Tác Giả Đối Với Nhân Vật.
* Thủ Pháp Tả Thực: Tả Mã Giám Sinh
- Giới Thiệu Nhân Vật: “Hỏi Tên, Rằng: Mã Giám Sinh/ Hỏi Quê, Rằng: Huyện Lâm Thanh Cũng Gần”.
- Về Ngoại Hình, Tuổi Tác: “Quá Niên Trạc Ngoại Tứ Tuần/ Mày Râu Nhẵn Nhụi Áo Quần Bảnh Bao”.
- Thể Hiện Phẩm Chất Con Người Qua Một Chuỗi Hành Động:
- Thiếu Tôn Ti Trật Tự, Thiếu Giáo Dục: “Trước Thầy Sau Tớ Lao Xao”, “Ghế Trên Ngồi Tót Sỗ Sàng”.
- Bản Chất Chợ Búa, Con Buôn: “Đắn Đo Cân Sắc Cân Tài” Bắt Kiều Đàn Hát, Làm Thơ Để Xem Tài, Sau Khi Ưng Ý Mới “Tùy Cơ Dặt Dìu” Hỏi Giá, Tiếp Tục “Cò Kè Bớt Một Thêm Hai”, Coi Kiều Như Một Món Hàng Và Trả Giá Bốn Trăm Lượng.
⇒ Đánh Giá:
- Tác Giả Sử Dụng Ngôn Từ Tả Thực, Chỉ Sử Dụng 2 Câu Để Mô Tả Ngoại Hình Nhân Vật, Còn Lại Tả Hành Động Để Thể Hiện Bản Chất Con Người Nhân Vật Mã Giám Sinh; Sử Dụng Nhiều Tính Từ Như “Lao Xao”, “Sỗ Sàng”, Đặc Biệt Động Từ “Tót” Cho Thấy Một Hành Động Vô Phép Tắc, Dáng Ngồi Xấu Xí.
- Qua Miêu Tả Thấy Được Nhân Vật Phản Diện, Thể Hiện Sự Khinh Ghét Của Tác Giả
b, Nghệ Thuật Miêu Nội Tâm Nhân Vật: Qua Đoạn Trích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích
* Thủ Pháp Tả Cảnh Ngụ Tình
- Cảnh Vật Được Nhìn Qua Con Mắt Của Kẻ Đang Đau Buồn Như Thúy Kiều Tràn Ngập 1 Màu Ảm Đạm, U Ám, Cô Liêu: 8 Câu Thơ Cuối Bài, Cảnh Vật Được Nhìn Bằng Sự Cô Đơn, Sợ Hãi Của Kiều, Tác Giả Miêu Tả Tâm Trạng Kiều Thông Qua Những Hình Ảnh Thiên Nhiên Như Thuyền, Cánh Hoa Trôi Trên Dòng Nước, Gió Thét, Sóng Gào.
* Thủ Pháp Độc Thoại Nội Tâm
- Tác Giả Miêu Tả Tâm Trạng Nhớ Thương Của Kiều Với Kim Trọng, Với Cha Mẹ Thông Qua 8 Câu Độc Thoại Nội Tâm Của Kiều, Từ Nhớ Thương Người Yêu Đến Thương Xót Cho Phẩm Hạnh, Cho Mối Tình Của Hai Người; Từ Lo Lắng Cho Cha Mẹ Đến Xót Xa Đau Buồn Nghĩ Mình Khó Quay Về Gặp Cha Mẹ Nữa.
c, Nhận Xét Về Nghệ Thuật Miêu Tả Nhân Vật:
- Dùng Cách Gián Tiếp Để Miêu Tả Nhân Vật Chính Diện: Dùng Thiên Nhiên Tả Vẻ Đẹp, Dùng Thiên Nhiên Tả Nội Tâm; Giọng Thơ Nhẹ Nhàng, Trang Trọng, Ưu Ái, Thương Xót.
- Dùng Cách Trực Tiếp Để Tả Nhân Vật Phản Diện: Tả Trực Tiếp Ngoại Hình, Tính Cách, Hành Động, Không Sử Dụng Hình Ảnh Thiên Nhiên Trong Miêu Tả; Giọng Thơ Thể Hiện Thái Độ Tức Giận, Khinh Ghét.
- Qua Miêu Tả Dự Đoán Trước Số Phận Nhân Vật.
3. Kết Thúc:
- Nghệ Thuật Miêu Tả Nhân Vật Của Nguyễn Du Qua 1 Vài Đoạn Trích Đã Được Học: Kết Hợp Miêu Tả Với Thể Hiện Tình Cảm Bản Thân, Sử Dụng Những Thủ Pháp Nghệ Thuật Truyền Thống Xen Với Cảm Hứng Nhân Đạo Mới.
- Cho Thấy Tài Năng Của Nguyễn Du.
Nghệ Thuật Miêu Tả Nhân Vật Trong Truyện Kiều - Mẫu 1
Truyện Kiều Một Tuyệt Phẩm Không Chỉ Của Văn Học Việt Nam Mà Còn Là Của Văn Học Thế Giới. Sự Thành Công Của Tác Phẩm Không Chỉ Là Ở Nội Dung Hấp Dẫn, Truyền Tải Nhiều Giá Trị Nhân Văn Tốt Đẹp. Mà Còn Ở Hình Thức Nghệ Thuật Đặc Sắc, Một Trong Những Nét Nghệ Thuật Đó Chính Là Nghệ Thuật Xây Dựng Chân Dung Nhân Vật. Bằng Nét Vẽ Ước Lệ Cho Nhân Vật Chính Diện Và Nét Vẽ Thực Cho Nhân Vật Phản Diện, Nguyễn Du Đã Xây Dựng Nên Những Chân Dung Nghệ Thuật Đặc Sắc.
Trước Hết, Khi Xây Dựng Nhân Vật Chính Diện, Những Con Người Có Phẩm Chất Đức Hạnh Tốt Đẹp, Nguyễn Du Sử Dụng Bút Pháp Ước Lệ, Tượng Trưng Để Làm Nổi Bật Vẻ Đẹp Của Họ. Là Chàng Thư Sinh Kim Trọng Hiện Lên Thật Đẹp Đẽ, Đúng Cốt Cách Của Một Kẻ Sĩ, Người Quân Tử:
Tuyết In Sắc Ngựa Câu Giòn,
Cỏ Pha Màu Áo Nhuộm Non Da Trời,
[..]
Nguyên Người Quanh Quất Đâu Xa,
Họ Kim Tên Trọng Vốn Nhà Trâm Anh.
Nền Phú Hậu Bậc Tài Danh,
Văn Chương Nết Đất Thông Minh Tính Trời.
Phong Tư Tài Mạo Tót Vời,
Vào Trong Phong Nhã Ra Ngoài Hào Hoa.
Còn Chàng Từ Hải Lại Hiện Lên Vô Cùng Uy Dũng, Mang Khí Chất Của Bậc Anh Hùng, Chọc Trời Khuấy Nước: “Râu Hùm, Hàm Én, Mày Ngài,/ Vai Năm Tấc Rộng, Thân Mười Thước Cao”. Nhưng Bức Tranh Chân Dung Đẹp Đẽ Nhất Chính Là Khi Miêu Tả Chân Dung Hai Nàng Kiều, Đây Là Những Chân Dung Mang Tính Chất Dự Đoán Số Phận. Vân Mang Vẻ Đẹp Đầy Đặn, Phúc Hậu: “Vân Xem Trang Trọng Khác Vời/ Khuôn Trăng Đầy Đặn Nét Ngài Nở Nang/ Hoa Cười Ngọc Thốt Đoan Trang/ Mây Thua Nước Tóc Tuyết Nhường Màu Da”. Nguyễn Du Sử Dụng Hình Ảnh Ước Lệ: Khuôn Trăng, Nét Ngài, Hoa Cười, Ngọc Thốt Để Miêu Tả Vẻ Đẹp Nàng Vân. Thúy Vân Có Khuôn Mặt Đầy Đặn Như Trăng Rằm, Nụ Cười Đoan Trang Duyên Dáng. Vẻ Đẹp Đó Khiến Tạo Hóa Thua Nhường, Từ Đó Cũng Dự Báo Cuộc Đời Êm Đẹp, Bình Lặng, Hạnh Phúc Của Nàng.
Với Nhân Vật Thúy Kiều, Nguyễn Du Sử Dụng Bút Pháp Gợi Tả, Chỉ Chấm Phá Vài Nét Nhưng Gợi Lên Cái Thần Thái, Cốt Cách Của Nhân Vật:
Kiều Càng Sắc Sảo Mặn Mà
So Bề Tài Sắc Lại Là Phần Hơn
Làn Thu Thủy, Nét Xuân Sơn
Hoa Ghen Thua Thắm, Liễu Hờn Kém Xanh.
Vẻ Đẹp Của Nàng Là Vẻ Sắc Sảo, Mặn Mà, Nhan Sắc Nghiêng Nước Nghiêng Thành Làm Ai Cũng Phải Mê Đắm. Không Giống Như Thúy Vân, Đi Miêu Tả Chi Tiết, Ở Thúy Kiều Nguyễn Du Chỉ Miêu Tả Đôi Mắt Của Nàng, Đôi Mắt Nàng Được Ví Như Làn Nước Mùa Thu Trong Xanh, Tĩnh Lặng Mà Ẩn Chứa Biết Bao Cảm Xúc, Đôi Lông Mày Thanh Tú Như Dáng Núi Mùa Xuân. Chính Cách Gợi Tả Này Đã Khiến Cho Vẻ Đẹp Của Kiều Càng Trở Nên Sắc Sảo Hơn. Vẻ Đẹp Của Nàng Khiến Hoa Ghen, Liễu Hờn, Tạo Hóa Cũng Phải Ghen Tuông, Từ Đó Dự Báo Cuộc Đời Nhiều Bất Hạnh, Sóng Gió. Và Cuộc Đời 15 Năm Phiêu Bạt Đã Cho Thấy Chiêm Nghiệm Của Nguyễn Du: “Lạ Gì Bỉ Sắc Thư Phong/ Trời Xanh Quen Thói Má Hồng Đánh Ghen”.
Nếu Với Các Nhân Vật Chính Diện, Nguyễn Du Sử Dụng Bút Pháp Ước Lệ Tượng Trưng, Chân Dung Nhân Vật Hiện Lên Vô Cùng Đẹp Đẽ, Mang Trong Mình Những Phẩm Chất Tốt Đẹp, Thì Đến Với Các Nhân Vật Phản Diện, Ông Lại Sử Dụng Bút Pháp Tả Thực, Lột Trần Bộ Mặt Xảo Trá Của Chúng. Mã Giám Sinh Hiện Lên Là Con Buôn Chính Hiệu:
Quá Niên Trạc Ngoại Tứ Tuần
Mày Râu Nhẵn Nhụi Áo Quần Bảnh Bao
…
Ghế Trên Ngồi Tót Sỗ Sàng
Là Người Đã Ngoài Bốn Mươi Tuổi, Theo Tục Lệ Xưa Thường Sẽ Để Râu, Nhưng Tên Mã Giám Sinh Lại Mày Râu Nhẵn Nhũi, Kệch Cỡm, Lố Bịch, Cố Tình Ăn Mặc Trẻ Trung Như Một Người Con Trai Mới Lớn. Hai Từ Nhẵn Nhụi, Bảnh Bao Đã Lột Trần Bản Chất Thực Của Hắn, Đồng Thời Thể Hiện Thái Độ Mỉa Mai, Châm Biếm Của Tác Giả. Hắn Cố Tình Dùng Quần Áo Bề Ngoài Để Che Đậy Bản Chất Xấu Xa Ở Bên Trong Nhưng Những Hành Động Cử Chỉ Của Hắn Thì Không Thể Thay Đổi: “Ghế Trên Ngồi Tót” Hết Sức Thiếu Văn Hóa. Không Chỉ Vậy, Bản Chất Con Buôn Còn Được Bộc Lộ Khi Bắt Kiều Gảy Đàn Làm Thơ Để Hắn Kiểm Chứng: “Đắn Đo Cân Sắc, Cân Tài/ Ép Cung Cầm Nguyệt Thử Bài Quạt Thơ” . Rồi Mua Bán Nàng Như Một Món Hàng, Cò Kè Bớt Một Thêm Hai Để Được Giá Mà Hắn Cho Là Xứng Đáng Nhất.
Còn Tú Bà, Chỉ Cần Đúng Bốn Câu Thơ Duy Nhất, Nguyễn Du Đã Cho Người Đọc Thấy Sự Xấu Xa, Bản Chất Đểu Giả Của Thị:
Rèm Trong Đã Thấy Một Người Bước Ra.
Thoắt Trông Lờn Lợt Màu Da,
Ăn Gì Cao Lớn Đẫy Đà Làm Sao?
Trước Xe Lơi Lả Han Chào
Bản Chất Buôn Thịt Bán Người, Lấy Đêm Làm Ngày Đã Lộ Rõ Trên Làn Da Nhợt Nhạt, Trong Dáng Người To Lớn Đẫy Đà Của Mụ. Thêm Vào Đó Là Điệu Bộ Lả Lơi, Chào Hỏi Khách Đã Cho Chúng Ta Hình Dung Đầy Đủ Về Bản Chất Xấu Xa, Cũng Như Công Việc Dơ Bẩn Của Mụ: Lừa Lọc, Đưa Biết Bao Người Con Gái Hiền Lành Nết Na Vào Cảnh Cực Khổ, Phải Bán Rẻ Nhân Phẩm Của Mình.
Với Biệt Tài Xây Dựng Và Miêu Tả Chân Dung Nhân Vật, Nguyễn Du Đã Xây Dựng Thành Công Hai Tuyến Nhân Vật Chính Diện Và Phản Diện. Qua Những Chân Dung Nhân Vật Này, Ông Cũng Gửi Gắm Thái Độ Trân Trọng Ngợi Ca Với Những Kẻ Quốc Sắc, Bậc Thiên Tài Trong Xã Hội. Đồng Thời Cũng Thể Hiện Thái Độ Mỉa Mai, Châm Biếm, Căm Ghét Với Những Kẻ Xấu Xa, Độc Ác.
Nghệ Thuật Miêu Tả Nhân Vật Trong Truyện Kiều - Mẫu 2
Nếu Như Ai Đã Từng Đọc Truyện Kiều Của Nguyễn Du, Có Lẽ Đều Tâm Phục Nghệ Thuật Dẫn Truyện Tài Tình, Cách Sử Dụng Ngôn Ngữ Bác Học Và Bình Dân Một Cách Linh Hoạt, Điêu Luyện Và Đặc Biệt Là Nghệ Thuật Miêu Tả Nhân Vật Thật Độc Đáo Và Gần Với Đời Sống. Nói Về Nghệ Thuật Miêu Tả Nhân Vật Trong Truyện Kiều Của Nguyễn Du Có Ý Kiến Cho Rằng: 'Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du Đã Rất Tài Tình Trong Việc Khắc Hoạ Nhân Vật. Nhưng Tác Giả Không Chỉ Dừng Lại Ở Dáng Vẻ Bề Ngoài, Với Ông, Tả Ngoại Hình Là Để Giúp Cho Người Đọc Hình Dung Rõ Hơn Bản Chất, Tính Cách Bên Trong Của Nhân Vật'.
Nguyễn Du Đã Xây Dựng Nhân Vật Của Mình Tập Trung Ở Hai Dạng Chính Theo Quan Điểm Truyền Thống Là : Nhân Vật Phản Diện Và Nhân Vật Chính Diện. Nếu Ở Nhân Vật Chính Diện, Tác Giả Thường Sử Dụng Bút Pháp Ước Lệ Tượng Trưng, Xây Dựng Nhân Theo Lối Lí Tưởng Hoá Thì Ở Nhân Vật Phản Diện, Tác Giả Thường Sử Dụng Bút Pháp Tả Thực Để Khắc Hoạ. Dù Miêu Tả Nhân Vật Ở Khía Cạnh Nào, Thì Ngòi Bút Của Ông Cũng Đạt Đến Trình Độ Bậc Thầy Về Ngôn Ngữ, Bởi Nhân Vật Hiện Lên Rất Sống Động Và Chân Thực.
Về Nhân Vật Chính Diện, Khi Miêu Tả Thuý Vân, Thuý Kiều Tác Giả Đã Sử Dụng Bút Pháp Ước Lệ, Hình Ảnh Ẩn Dụ Tượng Trưng, Thủ Pháp Tiểu Đối Để Gợi Tả Vẻ Đẹp Chung Của Hai Nàng. Hai Nàng Có Dáng Vẻ Mảnh Mai Thanh Tao Như Cây Mai 'Mai Cốt Cách', Tâm Hồn Trong Trắng, Ngây Thơ Như Tuyết 'Tuyết Tinh Thần'. Vẻ Đẹp Của Hai Nàng Đã Đạt Đến Độ Tròn Trịa, Hoàn Mĩ 'Mười Phân Vẹn Mười'. Nhưng Mỗi Người Lại Mang Một Nét Đẹp Riêng Không Giống Nhau Là 'Mỗi Người Một Vẻ'. Chân Dung Thuý Vân Được Nhà Văn Nguyễn Du Miêu Tả Là Một Người Con Gái Có Vẻ Đẹp Hài Hòa, Cân Đối:
'Vân Xem Trang Trọng Khác Vời
Khuôn Trăng Đầy Đặn Nét Ngài Nở Nang
Hoa Cười Ngọc Thốt Đoan Trang
Mây Thua Nước Tóc Tuyết Nhường Màu Da.'
Hai Chữ 'Trang Trọng' Nói Nên Vẻ Đẹp Cao Sang, Quý Phái Khác Thường Của Nàng. Vẻ Đẹp Trong Sáng, Quý Phái Ấy Được Nguyễn Du So Sánh Với Những Hình Tượng Đẹp Nhất Của Thiên Nhiên Như Trăng, Hoa, Ngọc, Mây, Tuyết. Nàng Có Khuôn Mặt Dày Đặn, Tròn Trịa Như Mặt Trăng, Đôi Lông Mày Sắc Nét, Miệng Cười Tươi Như Hoa, Tiếng Nói Trong Như Ngọc, Làn Da Trắng Mịn Hơn Tuyết, Mái Tóc Óng Ả Hơn Mây. Nàng Mang Một Vẻ Đẹp Trong Sáng, Phúc Hậu, Hài Hòa Khiến Thiên Nhiên Phải 'Nhường', 'Thua'. Qua Đó, Nhà Thơ Nguyễn Du Đã Khắc Hoạ Bức Chân Dung Của Thuý Vân Gợi Lên Một Tương Lai Tươi Sáng, Bình Yên, Hạnh Phúc.
Vẫn Với Bút Pháp Ước Lệ, Tượng Trưng Tả Vẻ Đẹp Của Thuý Kiều Tác Giả Lại Chỉ Miêu Tả Một Cách Khái Quát Mà Không Đi Vào Chi, Khi Miêu Tiết Như Thuý Vân. Nhà Thơ Chủ Yếu Đặc Tả Đôi Mắt Của Nàng. Bởi Đôi Mắt Vốn Dĩ Được Coi Là Cửa Sổ Của Tâm Hồn, Qua Đôi Mắt, Những Vẻ Đẹp Về Tâm Hồn, Trí Tuệ Của Thuý Kiều Được Thể Hiện Một Cách Đặc Biệt.
'Làn Thu Thuỷ Nét Xuân Sơn
Hoa Ghen Thua Thắm Liễu Hờn Kém Xanh'
Thuý Kiều Được Miêu Tả Có Đôi Mắt Long Lanh, Trong Sáng, Linh Hoạt Như Nước Mùa Thu, Đôi Lông Mày Thanh Tú Như Dáng Núi Mùa Xuân Khiến Vẻ Đẹp Của Nàng Khiến Thế Gian Phải 'Nghiêng Nước Nghiêng Thành'. Vẻ Đẹp Của Nàng Khiến Thiên Phải Đố Kị, Hờn Ghen. Với Cách Tả Ấy, Nguyễn Du Đã Vẽ Lên Bức Chân Dung Của Nàng Kiều Đẹp Như Tranh Hoạ, Vẻ Đẹp Sắc Sảo, Rạng Rỡ, Đài Các, Kiêu Sa Nhưng Qua Đó Cũng Dự Báo Về Một Kiếp Hồng Nhan Truân Chuyên, Đầy Trắc Trở, Chông Gai.
Khi Miêu Tả Chàng Kim Trọng, Tác Giả Lại Dùng Những Đài Từ Uyên Bác Để Diễn Tả Xuất Thân Quyền Quý, Sự Hào Hoa Phong Nhã Của Nhân Vật :
Nguyên Người Quanh Quất Đâu Xa
Họ Kim Tên Trọng Vốn Nhà Trâm Anh
Nền Phú Hậu Bậc Tài Danh
Văn Chương Nết Đất Thông Minh Tính Trời
Phong Tư Tài Mạo Tót Vời
Vào Trong Nho Nhã Ra Vào Hào Hoa
Còn Đối Với Từ Hải, Bậc Anh Hùng Trượng Nghĩa, Tác Giả Đã Mượn Những Hình Ảnh 'Râu Hùm, Hàm Én, Mày Ngài/ Vai Năm Tấc Rộng, Thân Mười Thước Cao', Để Lột Tả Những Đường Nét Cường Tráng, Thần Thái Uy Dũng Của Một Trang Hảo Hán.
Ngược Lại Đối Với Những Nhân Vật Phản Diện Như Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà, Tác Giả Lại Dùng Những Ngôn Từ Rất Bình Dân Nhưng Đã Lột Tả Bản Chất Thủ Đoạn, Ranh Ma Của Nhân Vật. Với Mã Giám Sinh Đôi Dòng Giới Thiệu :
'Hỏi tên rằng: 'Mã Giám Sinh''
Hỏi quê, rằng: 'Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao'
tác giả đã vẽ nên hình ảnh của một người có thái độ vô học, bất lịch sự. Dù đã trải qua nhiều năm tháng nhưng vẻ ngoài vẫn lịch sự, tử tế, cho thấy sự quan tâm đến diện mạo của bản thân. Nhân vật hiện ra là một kẻ buôn, với sự 'Cò kè bớt một thêm hai' đã thể hiện tính xảo trá, thủ đoạn của họ. Tác giả cũng mô tả về Sở Khanh, kẻ 'bạc tình nổi tiếng lầu xanh', với hình ảnh của một người 'chải chuốt áo khăn dịu dàng' để thu hút những 'cành phù dung'. Tú Bà, với vẻ ngoài quá lố lăng, qua màu da 'nhờn nhợt', đã lột tả nét tham lam, lừa dối của người phụ nữ trong buôn bán. Độc ác, nanh nọc của mụ còn được thể hiện qua cách hành động 'Phải làm cho biết phép tao', khiến người đọc không khỏi kinh hãi.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Truyện Kiều không chỉ dừng lại ở việc miêu tả bề ngoài mà còn khám phá sâu vào thế giới tâm lý phong phú của họ, tạo nên những nhân vật sống động, có cảm xúc phong phú. Trong đoạn 'Kiều ở lầu Ngưng Bích', tác giả vẽ nên cảnh vật cô đơn, buồn tủi, thể hiện lòng chung thuỷ, hiếu thảo và lòng nhân ái của Kiều. Thông qua nội tâm, sự đau đớn về tình yêu với Kim vẫn còn mãi không phai.
'Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai'
Khi miêu tả tính cách của Hoạn Thư, tác giả không ngần ngại thể hiện rõ quan điểm của mình:
Ở bàn ăn, nói chuyện cũng tháo vát
Nhưng khi đến chuyện ràng buộc, thì tay cũng đã già đi
Dù chuyển từ thơ sang đời thực, cách Nguyễn Du xây dựng hệ thống nhân vật trong Truyện Kiều vẫn rất đặc biệt. Tài năng của ông được khẳng định qua việc phác họa nhân vật chính diện và nhân vật phản diện bằng ngôn từ điêu luyện. Nhà phê bình Hoài Thanh đã thốt lên rằng 'Nguyễn Du đã tái hiện một thế giới sống, thật sự và đầy màu sắc. Những nhân vật trong tác phẩm như thể tồn tại ngoài đời thực, khiến người đọc dễ dàng nhầm lẫn giữa hư không và hiện thực'.
Bài thơ Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm nổi bật trong giáo trình văn học lớp 9, mà còn là nguồn tài nguyên phong phú cho các tác phẩm văn học khác như Soạn bài Truyện Kiều, Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong truyện Kiều, Phân tích nhân vật Thuý Kiều để nổi bật giá trị nhân đạo của tác phẩm. Thầy cô và học sinh cũng có thể tìm hiểu thêm về nguồn gốc và giá trị của Truyện Kiều, cũng như vẻ đẹp ngôn từ trong tác phẩm.
Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều - Mẫu 3
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác vô song trong văn học Việt Nam. Tài năng phi thường của tác giả đã tạo ra giá trị vĩnh cửu cho tác phẩm, là biểu hiện tinh túy của ngôn ngữ tiếng Việt đẹp và sâu sắc. Nguyễn Du thực sự là một bậc thầy trong việc sử dụng ngôn từ, miêu tả cảnh vật và tâm lý nhân vật với độ tinh tế và sắc bén.
Trong đoạn Trao duyên, nhà thơ tập trung vào việc thể hiện tâm trạng phức tạp của Thúy Kiều. Sau khi gia đình tan tác vì cơn bão, cha và em trai bị bắt và tài sản bị lũ vơ vét trắng trợn. Để đáp ứng yêu cầu của lũ tham quan, Thúy Kiều chỉ còn một cách là bán mình để chuộc lại cha với giá ba trăm lạng vàng.
Cả đêm, Thúy Kiều một mình ngồi trong bóng tối, áo đầm ướt đẫm lệ, tóc như mái sầu, sống trong biển cảm xúc. Trước ngày mai khi phải gả cho Mã Giám Sinh, nàng cảm thấy chính mình là nguyên nhân của những đau khổ trong tình yêu, là người làm tổn thương Kim Trọng. Nàng tự trách mình vì đã quyết định hy sinh bản thân để suy nghĩ cho Kim Trọng:
Phận dầu, dầu vậy thôi cũng phận,
Lòng đau mang bao nhiêu năm càng thêm đau!
Số công sức để biết bao nhiêu,
Chỉ vì lòng trung thành với kẻ dở dang.
Lời thề không khiến hoa rụng vàng,
Nhưng lời thề vẫn làm hoa tàn phai!
Giữa trời cao non nước xa vời,
Ngẫm mình phải rẽ cửa chia xa mình!
Duyên nợ vẫn phải trả bằng duyên,
Đời này chỉ còn biết sống thế nào thôi?
Thúy Kiều cảm thấy nặng nề vì là người mang phận. Nàng tự trách mình vì đã trung thành với người không xứng đáng. Thực ra, cả Thúy Kiều và Kim Trọng đều làm cho nhau yêu và kết hôn, và họ cảm thấy hạnh phúc khi ở bên nhau. Nàng cảm thấy buồn bã vì luôn tập trung vào người khác, ngay cả khi chính nàng đang đau khổ nhất.
Trước tình hình gia đình tan tác và tâm trạng rối bời, nàng chỉ biết khóc lóc trong bóng đêm, trách mình về số phận không may mắn. Suy nghĩ và đắn đo, nàng quyết định để cho em gái gặp gỡ Kim Trọng. Thúy Kiều đã trao phần của mình cho Thúy Vân khi em gái tỉnh dậy từ giấc mơ ngọt ngào.
Dường như Nguyễn Du đã hiểu được tâm trạng của Thúy Kiều, đồng cảm và thấu hiểu cho nàng, thay mặt nàng nói lên những lời sâu lắng làm xúc động lòng người nghe:
Rằng: Trái tim xao xuyến không yên,
Mối duyên vẫn còn bỏ ngỏ chưa rời.
Mở miệng ra cũng ngần ngại,
Để lòng chìm trong sự phụ tấm lòng của ai.
Kiều ngần ngại và khó nói vì vẫn còn mối duyên với Kim – mối tình đầu trong sáng và mạnh mẽ mà chỉ hai người biết. Nói chuyện riêng với người khác, thậm chí là em gái cũng không dễ dàng. Mối tình này đã liên kết mật thiết, với lời thề dưới ánh trăng nên nó là thiêng liêng và sâu sắc, khó thay đổi.
Kiều đang đối diện với tình huống khó khăn, không thể im lặng nhưng cũng không dám nói. Nàng suy nghĩ, do dự mãi rồi mới nói một câu khiến người nghe cảm thấy xót xa:
Dựa vào em, em có thể nghe theo lời,
Đứng lên để chị kính xin sau đó sẽ nói.
Thương cho Kiều! Nguyễn Du thấu hiểu sâu sắc tâm trạng và vị thế của nàng, vì vậy mới sử dụng những từ ngữ chứa đựng nỗi đau, xót xa như cậy (tin tưởng), lạy, thưa. Kiều nói với em gái như đang nói với người trên, thậm chí hơn thế – như một người ân nhân. Nàng hướng dẫn Thúy Vân từ điều bất ngờ này đến điều bất ngờ khác. Sau khi khó lòng bắt đầu, giờ đây, nàng chân thành chia sẻ với Thúy Vân về tình yêu dang dở của mình:
Từ khi gặp Kim,
Khi quyết tâm, khi hứa hẹn.
Sự gian nan không ít,
Tình yêu không dễ dàng cho hai bên.
Món nợ tình vẫn chưa trả,
Khối tình vẫn đọng lại chưa tan.
Nguyễn Du đã miêu tả một cách chân thực tâm trạng đau đớn của Thúy Kiều khi nghĩ đến người yêu giờ đây ở xa xôi, không biết về sự chấm dứt đột ngột của mối tình. Kiều coi đây như là một món nợ tình, một mối tình chưa trả, nên phải mang khối tình này xuống tuyền đài chưa tan. Thúy Kiều thật đáng thương và cao cả đến đâu!
Trong tâm trạng đầy mâu thuẫn của Kiều, nàng quyết định nhờ đến em gái: Dù đầy máu mủ, nỗi đau của nước non, nhưng để bảo vệ tình yêu với Kim Trọng, nàng sẵn lòng hy sinh. Tin vào em, nàng đã giao lại cả những kỉ vật quý báu:
Chiếc thoa và tờ mây,
Giữ lại vật này của chúng ta.
Tuy nhiên, sau khi tưởng tượng về cái chết đau đớn của mình, Kiều cảm thấy như một linh hồn oan khuất lạc lõng dưới bóng cây, mỗi cơn gió thổi làm nàng cảm thấy hối tiếc và đau đớn tăng gấp bội. Mâu thuẫn trong tấm lòng nhân từ của Kiều là điều tất yếu. Nàng lo lắng cho người yêu trước khi nghĩ đến bản thân, và nàng thực sự lo sợ và bối rối trước tương lai bất định. Nỗi đau tinh thần đã vượt quá sức chịu đựng của cơ thể yếu đuối của cô gái nhạt nhòa:
Lời không nói đã hồn ngất máu say,
Một hơi tắt tiếng, đôi tay lạnh giá như đồng.
Với bút kỳ tài, Nguyễn Du đã thành công trong việc miêu tả một cơn khủng hoảng, một cơn sóng dữ trong tâm hồn của cô gái tài năng nhưng đầy bi kịch. Nỗi đau của nàng không chỉ vì bản thân mình, mà còn vì người yêu, vì tình yêu. Tính nhân từ và lòng từ bi cao quý của Thúy Kiều khiến cho mọi người ngưỡng mộ và yêu quý nàng hơn.
Trích đoạn Nỗi thương mình kể về việc sau khi Mã Giám Sinh đưa Kiều đến lầu xanh của Tú Bà, nàng đã dũng cảm đấu tranh chống lại âm mưu độc ác của chúng để không bị biến thành kĩ nữ. Ban đầu, nàng quyết tâm hy sinh để trốn thoát khỏi số phận đau đớn, nhưng do ngây thơ và tin tưởng, nàng đã bị lừa dối bởi Sở Khanh và rơi vào bẫy của Tú Bà, buộc phải phục vụ khách hàng. Tình huống bi thảm khiến nàng chìm đắm trong nỗi đau và thất vọng:
Bao cánh bướm, bao tổ ong lay lắt,
Đêm say đầy tiếng cười thả hồn.
Lá cây reo gió, chim trên cành,
Bình minh sớm dẫn Ngọc đến Trường Khanh.
Chỉ trong bốn câu thơ, Nguyễn Du đã mô tả một cách sống động bức tranh về cuộc sống ở lầu xanh. Những ẩn dụ như bướm bay, lá cây rung, cùng với hình ảnh cuộc sống ồn ào, vui vẻ, say sưa trong đêm tạo ra bức tranh về sự lạc quan, hưởng thụ tại đây. Trong cái không gian náo nhiệt đó, Kiều vẫn cô đơn, buồn bã:
Khi tỉnh rượu, khi tan canh,
Giật mình, lại thương mình xót xa.
Hai câu thơ này có thể coi là tuyệt phẩm. Nhịp điệu và cảm xúc được thể hiện một cách tự nhiên, chân thành, chính xác tả tâm trạng đau đớn của Thúy Kiều. Đêm tối yên bình làm nỗi buồn hiện hình rõ ràng, thể hiện bằng hình ảnh của Kiều. Đọc hai câu thơ này, ai cũng sẽ phải chấp nhận nước mắt.
Nỗi đau là chủ đề chính trong đoạn trích này. Kiều phải xa lánh gia đình, quê nhà để bước vào một cuộc sống mới: bán mình. Nàng chấp nhận số phận mình nhưng không ngờ cuộc sống sẽ dẫn nàng đến nơi đầy rẫy tội ác. Nàng đang sống trong cảnh cô đơn, không có ai để chia sẻ nỗi đau. Đó là lý do tại sao nàng lại thương chính mình.
Nguyễn Du không chỉ diễn đạt tâm trạng của Kiều mà còn thông cảm và chia sẻ nỗi đau của nàng, tạo ra một liên kết cảm xúc với độc giả.
Thúy Kiều cảm thấy đắng lòng khi nhớ về sự khác biệt giữa quá khứ hạnh phúc và hiện tại u ám, tàn nhẫn:
Khi còn yêu đời, tươi đẹp như hoa,
Nay tan tác như lá rụng đường phố.
Gương mặt phủ đầy bụi sương,
Thân thể kiệt sức, không còn hồn nhiên như trước!
Sau những hình ảnh rực rỡ, kiêu sa là nỗi tức giận không dứt, những câu hỏi đau đớn muốn tìm lời ở trên trời. Thật bất công, trời đã phạt Thúy Kiều - một người phụ nữ hoàn hảo - bằng việc đẩy nàng vào cảnh tương phùng với sự đen tối của xã hội.
Nỗi đau đã làm Thúy Kiều trở nên tê liệt trước những kẻ sống chỉ để vui vẻ xung quanh nàng:
Mặc kẻ phong trần, lắm dối lừa,
Chẳng ai hiểu được nỗi buồn vô hình.
Đòi gió tựa hoa lạc bướm,
Cửa lạnh gió thổi, trăng già buồn rầu.
Trời chiều buồn tẻ, không ai vui cả,
Người buồn biết đâu có cảm thấy vui được?
Đòi nét vẽ tươi sáng câu thơ,
Trong tiếng đàn, dưới ánh trăng, dưới bóng hoa.
Vui mà cũng buồn, buồn mà cũng vui,
Cuộc sống này cảm xúc với ai thì vậy?
Hai câu thơ cuối làm tổng hợp nỗi cô đơn, đau khổ của Thúy Kiều. Nàng sống trong nỗi đau của mình. Nguyễn Du thật sự là một đại tài trong việc diễn đạt tâm trạng nhân vật, là một bậc thầy văn học của dân tộc.
Trong đời, Nguyễn Du đã gặp rất nhiều loại người. Ông hiểu biết về tính cách và tâm trạng của họ đến mức có thể vẽ ra hình ảnh chân dung chính xác của họ. Việc miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã tạo ra giá trị vĩnh cửu cho tác phẩm.
Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều - Mẫu 4
Nếu phải chọn một nhà văn tiêu biểu cho từng nước, nước Anh sẽ chọn Secxpia, nước Pháp chọn Môlie và nước Đức chọn Gớt. Còn tôi, nếu có quyền chọn, tôi sẽ không ngần ngại chọn Nguyễn Du và tác phẩm Đoạn trường tân thanh là một trong những điểm sáng của văn học Việt Nam và thế giới.
Nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du là điểm nhấn quan trọng vì ngoại hình là điều đầu tiên chúng ta nhận thấy về một người. Ông khéo léo miêu tả nhân vật chính và nhân vật phản diện, tạo nên sự đặc biệt trong tác phẩm. Điều này đã làm cho Nguyễn Du trở thành một tác giả vĩ đại, thậm chí cả những nhà văn hiện đại cũng không thể sánh kịp.
Mưa rơi nhẹ nhàng, lạnh lùng
Lá vụn phai màu sắc hòa mình vào không gian
Cùng nhìn vào Từ Hải, người anh hùng vĩ đại. Ta thấy 'Râu dày, mắt sâu, dáng người to lớn, vai rộng, thân cao mười thước', những đặc điểm của một người anh hùng. Ngược lại, những nhân vật phản diện được miêu tả rất thực tế, như Mã Giám Sinh, kẻ buôn bán và cũng là gã trai lơ. Sở Khanh, 'kẻ bạc tình nổi tiếng lầu xanh', được tượng trưng bằng hình ảnh mặc quần áo lịch sự để quyến rũ phụ nữ. Dù khác nhau, Nguyễn Du vẫn miêu tả rất đặc sắc, chọn lọc chi tiết để làm nổi bật đặc điểm của mỗi nhân vật.
Điều đặc biệt là khả năng miêu tả nhân vật của Nguyễn Du, một tài năng đặc biệt khiến cho người đọc từ nhiều thế hệ đều phải khâm phục. Khi miêu tả Thúy Vân, Nguyễn Du sử dụng những từ như:
Gương mặt đầy đặn, nét mặt tròn trịa
.....
Tóc màu mây, da trắng như tuyết
Và khi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều đến mức 'Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh', Nguyễn Du đã sử dụng từ ngữ để tạo ra hiệu ứng nhất quán. Trên cả 'thua' và 'nhường', mô tả sự hiền lành; dưới đó, 'ghen' và 'hờn' mô tả sự thánh thiện. Nguyễn Du đã tận dụng khéo léo các từ ngữ để diễn đạt sự thật. Ai đã nhận xét như vậy, đó là sự đúng đắn. Chẳng có gì ngạc nhiên khi sau này, trong những tình cảnh khó khăn, trong khi Kiều đau khổ vì nỗi riêng tư, nỗi gia đình, Vân vẫn có cuộc sống hạnh phúc bên Kim Trọng. Nguyễn Du đã miêu tả nhân vật đến mức không thể nào tốt hơn.
'Văn chương' đang ngày càng phát triển và đa dạng! Khi đi sâu vào khắc họa tính cách nhân vật, ta mới thấy được tài năng của Nguyễn Du như thế nào. Việc mô tả tính cách, nội tâm con người không phải là điều dễ dàng, nhưng Nguyễn Du đã vượt qua thách thức đó một cách nhẹ nhàng, hiệu quả.
Khi mô tả tính cách, ta như khi tả Hoạn Thư:
Trong ẩm thực, anh ta rất sành sỏi
Trong lời nói, anh ta cũng tỏ ra trưởng thành
Nếu không có điều này, thì Truyện Kiều cũng không thể tồn tại và lan tỏa với chúng ta như hôm nay. Hãy cùng nhau khám phá nguồn gốc làm cho văn Kiều vẫn còn sống động và lan tỏa qua hàng thế kỷ.
Đầu tiên, hãy nhìn vào cách Nguyễn Du miêu tả tính cách nhân vật. Nhà phê bình Xuân Diệu từng rất ấn tượng với cách mô tả nghệ thuật trong bức tranh về Vân
Hoạt bát, tỏa sáng như ngọc
Nếu thay 'nói' bằng 'thốt', thì Vân không cười cười nói nói suốt ngày, mà chỉ cười cười thỉnh thoảng, đúng lúc. Điều này làm nổi bật tính 'đoan trang' của cô. Sở Khanh, người đàn ông được mô tả 'chải chuốt áo khăn dịu dàng'. Mã Giám Sinh, đấng mày râu được miêu tả là 'mày râu nhẵn nhụi'. Những chi tiết như vậy làm nổi bật tính cách của họ, từ một gã lái buôn cho đến kẻ bạc tình.
Chỉ cần vài hành động điển hình, Nguyễn Du đã thể hiện sâu sắc tính cách của nhân vật. Ví dụ, khi Sở Khanh lẻn vào 'Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào', người đọc có thể cảm nhận được âm mưu đen tối của anh ta. Kiều, trong tuyệt vọng, cũng chỉ có thể 'liều nhắm mắt đưa chân'. Từ Hải luôn xuất hiện đột ngột như một cơn gió lốc.
Bất ngờ có khách biên đình sang chơi
Sau này, viện lại họ Đô kể về Từ Hải cho Kim, cũng dùng từ 'bất ngờ'. Từ Hải là một người như vậy! Anh đến và đi đột ngột như một cơn gió lốc, mang lại hạnh phúc cho mọi người. Chàng như ánh sao băng vụt lóe sáng, làm sáng tỏ màn đêm đầy ngỡ ngàng và ấm áp.
Nguyễn Du sử dụng ngôn ngữ một cách tinh tế để phản ánh tính cách của nhân vật. Đoạn 'ghi âm' lời của Hoạn Thư là một ví dụ điển hình:
Làm cho cho mệt cho mê
Làm cho đau đớn ê chề cho coi.
Âm điệu của Hoạn Thư khiến người ta sởn gai ốc, như muốn gây sợ hãi và làm rung động tâm hồn. Còn giọng điệu của Tú Bà thì :
Màu hồ đã mất, hết rồi
Thôi thôi, từ giờ không còn là vốn liếng của cuộc đời này nữa.
Những bài học mà mụ truyền cho Kiều trong làng chơi khiến Xuân Diệu thấy như là mụ đã nói trong vài phút nhưng nó có thể ghi sâu vào lòng người ngàn năm. Đối với những 'sư tử Hà Đông' ấy, ngôn ngữ là một cây bút tuyệt vời để vẽ lên tâm hồn của họ. Nguyễn Du đã thành công trong việc này.
Một phương pháp phổ biến trong nghệ thuật phác họa tính cách nhân vật là đặt họ vào tình huống điển hình. Kiều là một ví dụ xuất sắc cho phương pháp này. Nhân vật này được miêu tả rất chi tiết và sắc nét qua việc đối chiếu với văn hoá lễ giáo phong kiến:
Người gặp nhau vô tình
Trăm năm mới biết duyên phận ra sao
Cách mà Nguyễn Du đặt các nhân vật vào hoàn cảnh phức tạp đã làm cho chúng trở nên sống động và gần gũi với người đọc. Từ việc Kiều phải đối mặt với sự phân chia giữa tình yêu và trách nhiệm gia đình đến việc Từ Hải phải đối diện với lựa chọn giữa tình thương và danh vọng, tất cả đều được diễn giải một cách tinh tế, gợi lên sự phức tạp và đa chiều của con người.
Một điểm đáng chú ý là cách mà Nguyễn Du phân tích tâm lý của các nhân vật, không chỉ làm cho họ sống động mà còn tạo ra những tình huống đầy cảm xúc và sâu sắc. Cảm xúc phức tạp và mâu thuẫn của họ được tái hiện một cách chân thực và sâu sắc, làm cho người đọc cảm nhận được sự đa chiều và phức tạp của con người.
Có thể nói rằng, những nhân vật trong Truyện Kiều đã trở nên cổ điển đến mức khi nhắc đến họ, người ta nghĩ ngay đến những đặc điểm tiêu biểu của họ. Điều này là một minh chứng cho tài năng vĩ đại của Nguyễn Du trong việc phác họa nhân vật.
Biểu hiện của nét bút thật sự là rất sảng khoái
Bằng nghệ thuật miêu tả và khắc họa nhân vật, Nguyễn Du đã làm cho Truyện Kiều trở nên bất tử.
Nghệ thuật phác họa nhân vật trong Truyện Kiều - Mẫu 5
Trong tác phẩm tự sự, nhân vật chính chính là trái tim của câu chuyện. Nguyễn Du đã biến nhân vật trong 'Truyện Kiều' thành những con người sống động và đầy cảm xúc, làm cho độc giả nhớ đến họ hơn là cốt truyện. Điều này chứng tỏ tài năng miêu tả của Nguyễn Du.
Trong Văn học cổ Việt Nam, bút pháp ước lệ và tượng trưng đã được sử dụng để tạo ra những nhân vật biểu tượng, đại diện cho cái Chân, Thiện, Mĩ, cho công lý. Các nhân vật này được tôn thờ như những vị thần.
Trong trích đoạn 'Chị Em Thuý Kiều', Nguyễn Du đã sử dụng những câu thơ tuyệt vời để vẽ lên bức chân dung hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân với lòng yêu thương và tôn trọng.
Bốn câu thơ đầu tiên giới thiệu hai cô con gái đầu lòng của nhà Viên ngoại họ Vương. Tác giả sử dụng bút pháp tượng trưng và ước lệ, kết hợp với biện pháp tu từ ẩn dụ để làm nổi bật vẻ đẹp của hai chị em.
'Đầu lòng hai nàng cao quý
Thuý Kiều chị, Thúy Vân em
Mai tươi cách, tâm trong sáng
Mỗi người một vẻ, mười phần mười'.
Sau khi giới thiệu chung, đến lượt nàng Vân?
'Vân thấy trang nghiêm quý phái
Gương mặt tròn trịa, nụ cười dịu dàng
Hoa nở tươi thắm, vẻ đoan trang
Mây mờ phai, tuyết tinh khôi'.
Không chỉ trẻ trung, tươi tắn mà còn đoan trang, kiều diễm. Vẫn sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng kết hợp với từ ngữ tinh tế, bốn câu thơ tiếp theo như một bức tranh vẽ ra hình ảnh một thiếu nữ xinh đẹp, tươi trẻ, có khuôn mặt tròn trịa, sáng đẹp như trăng rằm, tiếng nói nhẹ nhàng như ngọc, mái tóc mượt mà, ánh mắt trong veo như mây trời, miệng cười tươi như hoa, làn da trắng mịn như tuyết... Đó là vẻ đẹp toàn diện của một cô gái phúc hậu, đoan trang và quý phái.
Tuy nghệ sĩ không dùng nhiều từ để miêu tả Thúy Vân, nhưng tập trung vào nhân vật Thúy Kiều. Tác giả miêu tả Thúy Vân, dường như sắc đẹp của cô không thể so sánh với Kiều. Thúy Vân trở thành nền tảng nâng cao vẻ đẹp của Kiều:
'Kiều sắc sảo hơn nét mặn mà
So với nhan sắc, tài Kiều mới là trên hẳn'.
Nghệ thuật này đã làm cho Thúy Kiều vượt qua sắc đẹp hoàn mỹ của Thúy Vân để trở thành một vẻ đẹp tuyệt vời nhất. Một lần nữa, bút pháp ước lệ, tượng trưng được sử dụng. Nhưng khi mô tả Kiều, Tố Như không nêu nhiều chi tiết như với Vân, nhưng tập trung vào việc tôn vinh tinh thần của nhân vật:
'Vẻ thu huyền diệu trên gương mặt
Hoa ghen thua sắc của liễu xanh'.
Ánh mắt của Kiều được so sánh như dòng nước thu, trong lành, long lanh, ẩn dưới lông mày thanh tú, mềm mại như dáng núi mùa xuân, tạo nên vẻ đẹp hài hòa, quyến rũ và sâu lắng.
Vẻ đẹp của Thúy Kiều thực sự là một vẻ đẹp lôi cuốn, khiến mọi người phải say mê, một vẻ đẹp rực rỡ và quyến rũ. Nó không phải là vẻ đẹp nhẹ nhàng, dịu dàng như Thúy Vân mà là vẻ đẹp gây ghen tị, gây ganh ghét, ngầm báo hiệu cuộc đời sẽ gặp nhiều gian nan, trắc trở. Nguyễn Du đã cảm nhận được điều này và đã thể hiện trong cách mô tả Kiều.
Khi miêu tả ngoại hình của Kim Trọng, một trong ba nhân vật nam đẹp nhất trong 'Truyện Kiều', Nguyễn Du cũng sử dụng bút pháp tượng trưng. Trong buổi tiệc thanh minh, khi Thúy Kiều còn do dự, âm nhạc vàng vang lên từng bước, tạo ra không khí lãng mạn và sôi động:
'Tiếng nhạc vàng vang xa xa
Một hình ảnh văn nhân hiện ra
Tự do bước chân nhẹ nhàng
Bên cạnh có một vài người theo dõi
Đằng sau là một số đứa con nhỏ'
Kim Trọng được mô tả từ xa đến gần, qua sự quan sát và ngưỡng mộ của người đẹp. Phong thái của anh trang nhã với 'túi gió trắng', sự cao quý có vài chú tiểu đồng theo hầu. Một con ngựa trắng như tuyết và màu áo xanh non kết hợp với màu sắc của trời. Mỗi bước đi của anh làm cho cảnh vật trở nên rực rỡ, cỏ cây thêm ngọt ngào hương sắc:
“Bước chân như lần đi trên đường xanh
Một không gian như là cành hoa dao nở rộ”
Nguyễn Du đã dành cho Kim Trọng những từ ngữ tươi đẹp nhất, trang trọng nhất, và tình cảm ân cần nhất. Dưới bút của ông, Kim Trọng trở thành biểu tượng của nhân vật thiên tài lý tưởng, là một người đàn ông đa tình, thể hiện khao khát tình yêu. Từ ngoại hình đến phong cách, từ tâm hồn đến trí tuệ, Kim Trọng tỏa sáng như là kết tinh của tài năng và vẻ đẹp thiên nhiên. Sinh ra trong một gia đình quyền quý, giàu có, và nổi tiếng (bậc tài danh), Kim Trọng mang vẻ đẹp tuấn tú và phong nhã. Nhà văn đã sử dụng ngôn từ Hán-Việt và bút pháp tượng trưng để miêu tả nhân vật thư sinh phong kiến này.
“Họ Kim tên Trọng gắn liền với nhà thơ trăm hoa
Thừa hưởng gia cảnh phú hậu và danh tiếng văn chương
Văn chương cao quý, thông minh tự nhiên
Phong cách thanh lịch, vẻ ngoài hào hoa
Trong nhà như là một quý ông, ngoài đời tỏa sáng như mặt trăng thơm mát”
Và đây là Từ Hải, một nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Sự giới thiệu của nhà thơ đặc biệt và gây ấn tượng, khi anh xuất hiện bất ngờ trong một đêm trăng trong và gió mát.
“Gió mát thanh khi trăng rọi sáng
Bất ngờ có người đến thăm nhà”
Không phải là một nhà văn với thanh âm của 'nhạc vàng', với vẻ đẹp như 'cỏ thêm màu áo tươi như màu da trời', cũng không phải là người 'cười sặc sụa như trời mưa' mà là 'một anh hùng' với phẩm cách phi thường:
“Râu dài như hàm của hùm, mày của chim én
Thân thể lớn mạnh, vai rộng mười thước cao”
Cách miêu tả ngoại hình ở đây không vượt ra ngoài lối mô tả ước lệ với những chi tiết đã được quy định bởi quan niệm thẩm mỹ phong kiến cho loại nhân vật anh hùng. Nguyễn Du đã tạo ra hình ảnh của nhân vật bằng những đặc điểm mạnh mẽ, cao lớn, và uy nghi để thể hiện sự phi thường, hơn người của Từ Hải:
“Một anh hùng trang trọng tựa như vách núi
Chỉ với cán sao đấu, tay cầm chất tài
Thống trị trời, chinh phục đất
Gia đình Từ, tên Hải, con người Việt Nam Đông”
Tác giả đã sử dụng một loạt các từ ngữ Hán – Việt: “anh hùng”, “cán sao đấu”, “tài năng”, “vượt trời, đạp đất, vùng vẫy” để mô tả tính cách và khao khát tự do của nhân vật Từ Hải. Có thể nói, tác giả đã sử dụng những từ ngữ và hình ảnh tráng lệ nhất, giọng văn hùng tráng nhất để ca ngợi phẩm cách phi thường, tính chất thích phiêu lưu và tình yêu lãng mạn của nhân vật Từ Hải. Từ giọng điệu đến ngôn từ đều trang trọng, cổ điển, tạo ra hình ảnh lung linh của một anh hùng huyền thoại. Từ Hải như một vì sao sáng lấp lánh qua cuộc đời ngắn ngủi của Thúy Kiều, nhưng để lại trong lòng độc giả những ấn tượng tốt đẹp.
Tóm lại, dưới ngòi bút ước lệ của tác giả, mỗi nhân vật đều có một phẩm chất riêng: Thúy Vân kiều diễm, đoan trang; Thúy Kiều sắc sảo, mặn mà; Kim Trọng hào hoa, phong nhã; Từ Hải gắn với tính cách phi thường của một anh hùng hảo hán. Tất cả những nhân vật này, Nguyễn Du đã dành cho họ những tình cảm trân trọng, ông dùng những từ ngữ đẹp nhất để ca ngợi.
Bút pháp này được áp dụng vào những nhân vật phản diện, với những đặc điểm độc đáo, sống động, tạo ra những hình ảnh cá nhân: Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà … trong đó Mã Giám Sinh là một ví dụ điển hình.
Trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” (Sách giáo khoa Ngữ văn 9), hình ảnh của Mã Giám Sinh hiện ra thật hài hước:
“Xuân xưa mặt già bạc phơ
Râu ria trắng tóc áo đồng rêu”
Câu thơ này miêu tả một cách khách quan nhưng vẫn lộ rõ sự châm chọc. Cách miêu tả thể hiện sự giả tạo và trơ trẽn của Mã Giám Sinh, như một người già mà vẫn cố gắng trông trẻ trung, là một thương gia nhưng lại muốn tỏ ra như một người quý tộc. Từ “mặt già bạc phơ” và “râu ria trắng tóc áo đồng rêu” không chỉ thể hiện sự già nua mà còn châm biếm về tính cách giả tạo, đạo đức thiếu chân thành của Mã Giám Sinh.
Trong “Kim Vân Kiều truyện”, Thanh Tâm Tài Nhân chỉ một cách ưu ái giới thiệu về Mã Giám Sinh: “Mụ Hàm nói xong đi ra, sau một lúc đưa mấy người đến, trong số họ có một người rất đẹp, bước tới chào và mãi ngắm nghía Thúy Kiều”.
Khi mô tả về Sở Khanh, một kẻ: “bạc tình nổi tiếng lầu xanh” Nguyễn Du chỉ viết hai câu nhưng vẫn thể hiện được tính cách giả dối, trái ngược của y:
“Một chàng trai trẻ tuổi
Mô tả chỉnh chu, ăn mặc nhã nhặn”
Tú Bà, một kẻ chuyên “buôn bán thịt người”, sống trong sự nhơ nhớp và nhục nhã, được miêu tả bởi nhà thơ:
“Da dẻ trơn tru, nhớp nháp
Ăn mặc xa hoa, hào nhoáng ra sao”
Chỉ với từ “dầu mỡ”, Nguyễn Du đã khiến cho người đọc cảm thấy kinh tởm khi nhìn vào Tú Bà …
Như vậy, chỉ cần vài nét vẽ, cụ Tiên Điền đã tóm tắt chân dung của những kẻ xấu trong xã hội: Sở Khanh lừa dối tình ái, Tú Bà kinh doanh không trung thực … Đằng sau những nét vẽ tinh tế là sự khinh bỉ của nhà thơ đối với những kẻ này …
So với “Kim Vân Kiều truyện”, hành động của các nhân vật trong truyện Kiều chỉ được tóm gọn lại nhưng sống động, phản ánh rõ bản chất của họ. Trong quá trình viết, Nguyễn Du đã loại bỏ những hành động không cần thiết và thêm nhiều chi tiết mới để làm nổi bật tính cách của nhân vật. Dưới đây là những ví dụ điển hình.
Trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”, sau khi thực hiện lễ “vấn danh”, Mã Giám Sinh được Mụ mối dẫn vào “lầu trang”, lúc này bản chất thấp kém trong con người hắn mới dần được tiết lộ:
“Ngồi trên ghế to lớn”
Chỉ với cử chỉ nhẹ nhàng của việc ngồi tót, Nguyễn Du đã hé lộ rõ bản chất vô học và hành vi lừa đảo của Mã Giám Sinh. Hành động này không chỉ vụng về mà còn thể hiện sự thiếu thấu đáo, không phù hợp với tư cách người đi cầu hôn và không đáng cho một giáo sĩ của Trường Quốc học.
Cũng giống như những kẻ lừa đảo và xấu xa khác, Sở Khanh đã trở thành nỗi ám ảnh đối với những cô gái trẻ đang yêu đương... Chỉ cần một cử chỉ lén lút và một hành động gật đầu thoáng qua, Nguyễn Du đã phơi bày toàn bộ bản chất đáng sợ của Sở Khanh khi hắn lừa dối Kiều:
“Cây cối rung động, bóng cây nghiêng ngả
Quẹo ngang đã thấy Sở Khanh lén lút tiến vào”
Sau khi nghe Kiều tường thuật về mình một cách ân cần, hắn ta đã:
“Im lặng, chỉ biết gật đầu nhẹ nhàng
Ở đây không có ai khác, chỉ có ta thôi”
Hành động lén lút và cử chỉ lẩm nhẩm của Sở Khanh phản ánh sự ám muội, không chân thành, không phản ánh tính cách lịch sự của một người đàn ông lịch thiệp.
Đó là cử chỉ của kẻ gian trá, tinh ranh. Trong khi Hồ Tôn Hiến, một quan lớn, lại sử dụng mưu mô thấp hèn để đạt được mục đích, không đấu tranh với tài năng mà thay vào đó là mua chuộc Thuý Kiều, giết chết Từ Hải. Hành động không có lòng trắc ẩn hơn, sau khi Từ Hải qua đời, hắn còn ép buộc Kiều vào tình cảnh nhục nhã:
“Ngày càng say đắm, vẻ đẹp ngày càng quyến rũ
Kìa, cả sắt cũng say mê trước tình yêu”
Đằng sau vẻ uy nghiêm của một viên quan “trọng thần” là một Hồ Tôn Hiến cũng bị quyến rũ trước vẻ đẹp của Thuý Kiều. Hành động này tiết lộ một tâm hồn mê muội, đầy tham lam...
Không chỉ với những nhân vật phản diện, nhà văn cũng tập trung vào những chi tiết đặc biệt, những hành động tiêu biểu nhất để mô tả tính cách của nhân vật. Điều này được thấy rõ trong cách miêu tả Thúy Kiều và Kim Trọng. Trong một tình huống:''
“Người có phẩm chất dân tộc, người có tài năng thiên bẩm
Tình cảm sâu đậm nhưng vẫn e ngại hiện hữu bề ngoài”
Kim Trọng, trong tình yêu, ôm ấp hình bóng của người đẹp, cảm thấy lo lắng và tìm mọi cách để gặp gỡ Kiều. Khi gia đình Vương Viên Ngoại trở về quê hương để tổ chức lễ kỷ niệm, Kim không bỏ lỡ cơ hội này:
“Thời gian đã chuẩn bị mọi điều
Bước chân nhẹ nhàng dạo quanh góc tường”
Còn Kiều, vì tình yêu và mong muốn hạnh phúc, đã chia sẻ lòng bất an của mình với người yêu khi:''
“Lặng lẽ bước vào lối đi trong vườn hoàng hôn, một mình”.
Với cử chỉ nhẹ nhàng, thoải mái “xăm xăm”, Kiều và Kim Trọng đã thể hiện rõ họ là những người dám sống theo tình yêu, vượt qua những quy định nghiêm ngặt của xã hội phong kiến để theo đuổi những gì mà trái tim hướng đến.
Tóm lại, dưới nét vẽ của thi sĩ, từ ngữ mang lại sức mạnh kỳ bí, tạo nên những bức tranh tinh tế. Những từ như “tót”, “lẻn”, “cò kè”, “xăm xăm”, “thoăn thoắt”,... là những đặc điểm riêng chỉ có ở Nguyễn Du, không xuất hiện trong “Truyện Kiều” của Thanh Tâm Tài Nhân. Chính vì vậy, nhân vật trong Kiều trở nên cụ thể và sống động hơn nhiều so với những nhân vật của tác phẩm khác.
Trong đoạn mô tả về việc Mã Giám Sinh mua Kiều, trong bối cảnh giao dịch, Thuý Kiều trở thành biểu tượng của sự trong sáng bị bóp méo, của tài năng bị đè nén và tổn thương. Nguyễn Du càng căm hận Mã Giám Sinh đến đâu, càng đồng cảm sâu sắc với nỗi đau, sự nhục nhã và khổ đau của cô gái tài năng. Kiều được miêu tả như một trang sách quý giá bị bán như một món hàng trên thị trường, Nguyễn Du kể chuyện với sự đau đớn, đồng cảm với nhân vật.
“Nỗi đau cá nhân kết hợp với nỗi đau gia đình
Người đẹp một bên khóc, hoa một bên cũng lệ
Ngại ngùng trước cảnh gió và sương
Đóa sen thẹn thùng, chìm trong gương mặt đầy nước mắt”
Bốn dòng thơ miêu tả nỗi đau, sự tổn thương và nhục nhã của một người phụ nữ tuyệt vời trước việc bị bán như một món hàng bởi những kẻ buôn người vô nhân tính. Trong suốt câu chuyện, Kiều không cần phải nói ra một lời nào, mà cảm xúc của cô chỉ được thể hiện qua những bước chân và ánh mắt. Rõ ràng, sự im lặng và nước mắt lặng lẽ của Thuý Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du hoàn toàn phản ánh được tâm trạng của cô trước bi kịch và tính cách của mình.
Thế giới tâm hồn của các nhân vật được tái hiện một cách rõ ràng và sống động dưới ngòi bút tưởng như rất khách quan của nhà thơ. Tuy nhiên, sau những dòng chữ lạnh lùng đó là những giọt nước mắt của một trái tim đầy bi thương, đa cảm. Trong đoạn trích “Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều”, Nguyễn Du đã tái hiện lại cuộc chia ly đầy lưu luyến của đôi trẻ. Đối với Thuý Kiều, dù Thúc Sinh không phải là người yêu đầu tiên mang lại cho cô những cảm xúc lãng mạn nhưng họ đã có những thời gian hạnh phúc bên nhau. Chàng Thúc Sinh đã mang lại cho Kiều một cuộc sống trong sạch, hòa thuận, hạnh phúc, cả hai đã “trao trái tim cho nhau nhưng lại phải chia xa”. Họ đều không muốn xa cách nhau nhưng vẫn phải làm như vậy. Lần này Thúc Sinh từ biệt Kiều để thông báo cho Hoạn Thư biết về việc anh đã lấy Kiều làm vợ. Kiều cảm nhận được rằng cuộc chia ly này lành ít, đau nhiều:
“Người cưỡi ngựa, kẻ phải chia xa
Rừng thu đã chuyển sang màu của lãng quên
………………………
Vầng trăng nào cắt thành đôi
Nửa che chở gối, nửa soi sáng đường đi”
Thông qua lời kể của Nguyễn Du, chúng ta được thấy một hình ảnh của Kiều, cô đơn, đấu tranh với nỗi đau của sự xa cách. Thiên nhiên xung quanh cũng trở nên trống rỗng, phân tán, màu của sự chia xa, lìa biệt: một vườn dâu bất tận, một vầng trăng cô đơn, không trọn vẹn. Nhà thơ không cho hai người nói một từ nào nhưng sao chúng ta cảm nhận được họ đang trò chuyện với nhau nhiều như vậy. Họ nói trong im lặng, qua ánh mắt, họ truyền đạt tâm hồn cho nhau qua cảnh vật. Nhưng độc giả vẫn cảm nhận được tâm trạng, biểu hiện của Kiều qua từng câu chữ. Đó là nhờ có “con mắt sáng suốt, trái tim đa cảm” và tài năng vĩ đại của Nguyễn Du mà những câu thơ như thế ra đời.
Cũng nói về nỗi đau, sự buồn rầu, đoạn thơ miêu tả tiếng đàn của Kiều sau khi bị Hồ Tôn Hiến làm nhục khi chồng cô mới qua đời vô cùng đầy xúc động:
“Một cung gió mưa buồn bã
Bốn dây nhỏ máu ứa ra từng đầu ngón tay”
Tâm trạng đau buồn của Thuý Kiều được thể hiện qua âm nhạc bi thảm, qua những ngón tay ươm máu. Trong các lần chạm vào dây đàn của Kiều, không lần nào âm nhạc bi thương, đau đớn như lần này. Tiếng đàn chứa đựng máu, tiếng đàn mang cả cái chết của Từ Hải và cái chết trong lòng Kiều. Một thế giới tâm hồn đã bị khuất phục, mọi hạnh phúc, ước mơ đều tan biến. Ta cảm nhận được, dường như Nguyễn Du cũng đang chịu đựng sự đau khổ, máu tươi trên tâm hồn cùng với Kiều đáng thương.
Có thể nói, qua bút pháp tâm hồn và tài năng của nghệ sĩ, Tố Như đã vẽ nên bức tranh của Thuý Kiều không chỉ là một phụ nữ tuyệt vời mà còn là một thế giới tâm hồn phong phú với những cảm xúc thật sự: có nỗi đau buồn, xót xa, đau đớn, có sự ê chề, hổ thẹn, có nỗi nhớ nhung, khắc khoải. Có lẽ vì thế mà Kiều trở nên gần gũi với đời thực hơn.
Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” tác giả đã rất rõ ràng thể hiện tâm trạng, suy nghĩ, cảm xúc của Thuý Kiều qua lời nói bên trong. Trong sự cô đơn ở lầu cô cảm nhận được, nơi đó không Kim Trọng. Nhớ đến Kim, nàng nhớ tới lời thề dưới trăng đêm tình tự “dưới ánh trăng đồng”, nhớ đến người yêu đau khổ “đang chờ đợi”, “cô đơn”, buồn bã. Những từ ngữ, hình ảnh về không gian và các động từ, tính từ “nghĩ”, “nhớ”, “chờ” đã tạo nên một hệ thống ngôn ngữ bên trong diễn đạt một cách cảm động, sâu sắc cảm xúc nhớ nhung người yêu trong mối tình đầu, giờ đây vì số phận phải xa cách đau đớn:
“Tưởng người dưới ánh trăng đồng
Tin sương luống những đang chờ đợi
Góc trời bên biển cô đơn
Tấm lòng gợi nhớ, chờ phai đi”
Nhớ Kim, thương Kim nhưng không biết rằng Kiều cũng đang được chờ đợi không ngừng, Kiều cảm thấy buồn bã với tình cảnh cô đơn, trống trải của mình nơi “góc trời, bên biển” và nuối tiếc cho tình yêu đầu tiên trong trắng. “Tấm lòng” ở đây là trái tim kiên định của Thuý Kiều dành cho Kim Trọng. Khi nào Kiều mới quên được Kim? Hoặc có thể hiểu đây là tấm lòng trong trắng của Thuý Kiều bị vùi lấp, hoen ố, không biết bao giờ mới có thể “gột rửa” được.
Trong lúc suy tư lạc quan, Kiều nhớ đến người yêu mình và đau lòng cho cha mẹ:
“Nhớ người tựa cửa ngày mai
Chia sẻ ấm áp, lạnh lùng lúc này?
Quê nhà cách xa nắng mưa
Có khi người già đã vừa đón con về”
Nhà thơ đã sử dụng các từ ngữ như “Sân Lai”, “gốc tử” và thành ngữ “chia sẻ ấm áp, lạnh lùng” để mô tả nỗi nhớ thương cha mẹ của Kiều, cùng với hình ảnh mẹ già “tựa cửa ngày mai” đang đợi chờ, trông ngóng đứa con lưu lạc trở về đã diễn đạt rõ ràng nỗi đau buồn của Kiều. Giọng thơ lưu luyến, nỗi đau của Kiều như lan tỏa vào thời gian và cảm xúc của người đọc.
Rõ ràng, chỉ trong một đoạn thơ ngắn gọn, cụ Tiên Điền đã sử dụng ngôn ngữ nội tâm kết hợp hài hoà với phong cách cổ điển để diễn đạt tâm trạng và cảnh ngộ đầy bi kịch của Thuý Kiều. Trong cảnh chia lìa “trâm gãy bình tan”, Kiều vẫn dành cho “người tình chung” tình cảm sâu nặng và luôn nhớ thương, đau lòng cho cha mẹ quê nhà. Nàng thật sự là một người tình trung thành, một đứa con hiếu thảo.
Trong suốt mười lăm năm đi lạc, Nguyễn Du đã để Kiều một mình nhiều lần để từ đó nàng có thể thể hiện chính mình.
Có những lúc, nàng đau khổ, đau đớn, xót xa và cảm thấy tổn thương sau những đêm “say rượu đầy tháng” và “cuộc sống đầy biến động”:
“Khi tỉnh mơ tỉnh cơn say
Thấy mình, mình lại thương mình thêm”
Có khi nàng lo âu, suy nghĩ, sợ hãi về cuộc sống, về tương lai, về số phận của mình. Nỗi lo sợ đó luôn ám ảnh, làm nàng lo lắng không nguôi:
“Một mình do dự ngắm đêm
Đường xa nghĩ nỗi sau này làm kinh”
Đặc biệt khi Kiều khuyên Từ Hải ra đi, ngôn ngữ nội tâm đã phản ánh rõ nét tâm trạng, suy tư thực tế của một cô gái trải qua nhiều biến cố trong cuộc đời:
“Dẫu biết mình như cánh bèo
Đã trải qua nhiều biến động lại nhiều gian khó
Nhưng mà chịu tiếng vương thần
Đường đời rộng lớn, dù đường hẹp gì”
Thông qua đoạn thơ, ta thấy tâm trạng của Kiều hiện lên rất thực tế: nàng biết rằng khi Từ Hải ra đi, nàng sẽ phải chịu nhiều khó khăn, gánh chịu tiếng “vương thần” nhưng cũng đồng thời nghĩ đến tương lai sáng sủa, tràn đầy hy vọng. Dù sao, Kiều chỉ mong muốn có cuộc sống bình yên, lương thiện và trong sạch.
Để tạo nên những nhân vật sống động và toàn diện, Nguyễn Du đã mô tả họ từ nhiều khía cạnh khác nhau, từ ngoại hình đến tâm trạng, thậm chí qua những cuộc đối thoại giữa họ để thấy rõ tính cách phong phú của mỗi nhân vật.
Trong đoạn trích “Thuý Kiều trả ơn trả thù” ngôn ngữ đối thoại được thể hiện rất rõ ràng. Có hai cuộc trò chuyện, một là giữa Kiều và Thúc Sinh, và một là giữa Kiều và Hoạn Thư.
Lúc này, sau nhiều biến cố, Kiều được Từ Hải, anh hùng đã “đội trời đạp đất”, giải thoát khỏi lầu xanh, giúp nàng trả ơn và oán. Từ Hải đã giúp Kiều thoát khỏi cuộc sống kỹ nữ trong lầu xanh để trở thành một phụ nữ của quan lại, một người quan trọng trong hành lang công lý. Trước toà án, nàng gọi tất cả những người đã từng giúp đỡ hoặc gây ra những tổn thương cho mình đến.
Đến lượt Thúc Sinh được Kiều mời, trước khung cảnh trang trọng với các quan trọng, thanh kiếm sáng loá, Thúc Sinh hoảng sợ đến mức mặt như chàm đổ, cả người run rẩy. Có lẽ, chàng Thúc thực sự ngạc nhiên khi nghe lời nồng nàn của Thuý Kiều:
“Nàng nói: Nghĩa dày nặng như núi non
Lâm Tri đồng lòng, chàng nhớ không?
Sâm Thương không vơi chữ hiếu
Làm sao, ai dám phụ lòng người hiền tài?”
Rõ ràng, Kiều chưa bao giờ quên lòng tốt của Thúc Sinh, người từng yêu thương và giúp đỡ nàng thoát khỏi lầu xanh, mang lại những ngày hạnh phúc. Nàng biết ơn tấm lòng đó, gọi đó là “nghĩa dày nặng như núi non”, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc. Dù không được sống bên Thúc Sinh và phải chịu nhiều khó khăn, Kiều không trách chàng. Nàng hoàn toàn hiểu lỗi không phải do Thúc Sinh: “Làm sao, ai dám phụ lòng người hiền tài?”. Dù có “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” cũng không đủ để đáp lại ân nghĩa của Thúc Sinh.
Trong cuộc trò chuyện với Thúc Sinh, Kiều sử dụng ngôn ngữ trang trọng như “nghĩa dày nặng như núi non”, “không vơi chữ hiếu”… chủ yếu là từ Hán – Việt, cùng với điển cố “Sâm Thương”. Cách nói này phản ánh tấm lòng biết ơn của Thuý Kiều và phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc.
Trong khi nói chuyện với Thúc Sinh, Thuý Kiều không trách chàng nhưng cũng không thể không bày tỏ sự oán giận và đau khổ về Hoạn Thư đã gây ra cho mình. Vì vậy, ngay khi nói chuyện với Thúc Sinh, Kiều cũng nhắc đến Hoạn Thư:
“Người ấy, vợ anh ta, quả là ma quỷ kỳ quái
Đây là lúc kẻ trộm và bà già gặp nhau
Kiến bò chỉ mới vừa cắn chén
Dù âm mưu đến độ nào, cũng sẽ trả đủ mức nghĩa bằng”
Cách diễn đạt đã thay đổi hoàn toàn. Khi nói về lòng biết ơn của Thúc Sinh, Kiều sử dụng ngôn ngữ trang trọng, nhưng khi nhắc đến Hoạn Thư, ngôn từ lại trở nên giản dị, nhân dân dã. Các thành ngữ quen thuộc như “Kẻ trộm gặp bà già”, “Kiến bò mới cắn chén” và câu chốt: “Âm mưu đến đâu, nghĩa sẽ trả bấy nhiêu” hứa hẹn một cuộc trả thù theo quan điểm của dân gian: cái ác sẽ bị trừng trị, “báo ứng tương xứng”.
Nhờ cuộc trò chuyện với Thúc Sinh mà tính cách của Kiều đã được làm sáng tỏ. Nàng là một người sống có trách nhiệm, biết ơn, và biết trả ơn.
Sau khi hoàn thành việc báo đáp cho Thúc Sinh, quản gia nhà Hoạn và sư Giác Duyên, Thuý Kiều quyết định thực hiện cuộc trả thù:
“Dưới bóng gươm sắc, mạnh mẽ nâng lên
Tên tội phạm đích thực, đó chính là Hoạn Thư”
Khi nhìn thấy Hoạn Thư, Thuý Kiều đã nói lời chào mỉa mai với một thái độ khinh bỉ:
“Một cái nhìn, nàng đã chào hỏi:
Ngài tiểu thư cũng quý mến đến đây à”
Nàng vẫn sử dụng cách gọi như khi trước kia làm Hoa nô cho gia đình Hoạn, vẫn “chào hỏi”, vẫn “tiểu thư”. Cách gọi này giữa Kiều và Hoạn Thư là một cách mỉa mai, tấn công mạnh vào danh dự của gia đình Hoạn, khiến Hoạn Thư cảm thấy ngượng ngùng và sợ hãi hơn. Khi nói chuyện với Hoạn Thư, lời của Kiều mang âm điệu mạnh mẽ, đầy căm phẫn:
“Phụ nữ dễ dàng có nhiều phương tiện
Trong thế giới này, sự gan dạ của con người là không giới hạn
Dễ dàng là đặc tính của vẻ đẹp bên ngoài
Ngược lại, sự tàn nhẫn càng nhiều, báo ứng càng lớn”
Từ ngữ được lặp lại, lời nói như một tràng đọng từ “dễ dàng có, dễ dàng, không giới hạn, bề ngoài, ngược lại, càng…càng…, nhiều”. Với Hoạn Thư, một người “Bề ngoài hiền hậu nhưng trong lòng âm mưu giết người không dao”, cách diễn đạt của Kiều là hoàn toàn phù hợp và xứng đáng.
Đối diện với sự châm chọc, căm phẫn của Kiều, Hoạn Thư đã ứng xử ra sao?
Lúc đầu, Hoạn Thư có phần bối rối nhưng sau đó, bà đã nhanh chóng lấy lại tinh thần và đáp lại: “Khiêm nhường dưới trướng sẽ đưa ra lời cảm ơn”. Những lời “cảm ơn” của Hoạn Thư thực ra là lời biện hộ:
“Tôi là một phụ nữ bình thường
Ghen tuông là điều ai cũng có thể hiểu được”
Lý do đầu tiên mà Hoạn Thư đưa ra là lòng tự tôn của phụ nữ. Thật khôn khéo của Hoạn Thư. Chỉ cần vài từ “một phụ nữ bình thường” đã đủ khiến đối phương cảm thông, vì Kiều chính là người đã trải qua nhiều bi kịch của “phụ nữ bình thường” đó. Và khi đã là phụ nữ, ai lại không cảm thấy ghen tuông với: “Chồng chung chưa bao giờ là điều dễ dàng”. Lý lẽ này đã làm tan biến sự đối lập giữa Kiều và Hoạn Thư, khiến Kiều từ vị trí đòi công bằng trở thành đồng cảm, cùng chia sẻ “phận phụ nữ” còn Hoạn Thư - kẻ có tội lại trở thành kẻ đồng cảnh, cùng chịu “phận phụ nữ”: nạn nhân của hệ thống đa phu.
Tiếp theo, Hoạn Thư nhắc lại chút lòng nhân từ xưa: một là, đã cho Kiều xuống chùa Quan Âm “giữ chùa chép kinh”, không bắt làm nô lệ nữa; hai là: khi Kiều rời bỏ mang theo chuông vàng, khánh bạc để trả nợ, Hoạn Thư cũng đã buông lỏng, không bắt giữ. Cách diễn đạt rất khéo léo chỉ gợi nhớ lại sự thật và quá khứ, chỉ người trong cuộc mới hiểu. Ở đây Hoạn Thư mong Kiều nhớ lại, suy nghĩ lại:
“Khi gác bút viết lên Kinh
Và khi ra khỏi cửa chấm dứt tình không theo”
Ngoài ra, Hoạn Thư đã bày tỏ tấm lòng riêng của mình đối với Thuý Kiều. Mặc dù sống trong hoàn cảnh “Chồng chung chưa bao giờ dễ dàng” nhưng sâu thẳm trong lòng, Hoạn Thư vẫn “kính yêu” Kiều. Thực tế, Kiều là kẻ thù của Hoạn Thư. Nhưng Hoạn Thư đã vượt lên trên cái tình cảm bình thường của một người phụ nữ để tán dương đối thủ trước mặt chồng mình:
“Với việc trao lại Thúc Sinh
Thì tài nên được tôn trọng và tình yêu nên được đặc biệt trân trọng
Dù có vận may đưa đến giàu có
Nhưng vận may này cũng nên bỏ qua ngay cả khi nó là một ngôi nhà vàng”
Bây giờ Hoạn Thư đã khơi lại ký ức đó: “Tình yêu trong lòng riêng tư” làm sao mà Kiều không bị xúc động.
Trong cuộc trò chuyện với Thuý Kiều - cuối cùng Hoạn Thư nhận trách nhiệm đầy đủ về hành động của mình: “Rơi vào tình hình rắc rối vì tâm hồn đã gây ra”. Việc nói “rơi vào tình hình” là Hoạn Thư muốn làm sạch bản thân và cho rằng hành động của mình chỉ là do không may mắn. Bây giờ cô ấy chỉ biết hy vọng Kiều sẽ tha thứ cho mình:
“Rơi vào hoàn cảnh gây rắc rối
Và cần có lòng tha thứ từ trái tim bao la”
Trong tình thế đó, với khả năng nói đối thoại đầy thông minh như vậy, Hoạn Thư thực sự là một con người sâu sắc về tri thức và sự phức tạp của cuộc sống, đến nỗi gần như siêu nhiên, xứng đáng với danh hiệu phu nhân của Từ Hải. Rõ ràng lời biện hộ của Hoạn Thư vô cùng chính đáng và cảm động. Lời xin lỗi được thể hiện một cách thành khẩn, khiến Thuý Kiều không thể không công nhận sự thông minh và tài năng của Hoạn Thư, và ngay lập tức đưa ra lời khen ngợi:
“Khen ngợi: Đúng là phải thừa nhận
Không quá cứng nhắc, nói lời phải thấu hiểu”
Không thể là người ích kỷ, Kiều đã quyết định tha thứ cho Hoạn Thư:
“Truyền lệnh từ trên xuống, tha thứ ngay lập tức”
Biến cố diễn ra quá bất ngờ, vượt xa sức tưởng tượng của nhiều người. Ban đầu, khi bắt đầu cuộc trả thù, Kiều lên tiếng yêu cầu mọi người ngồi lại để: “nhìn rõ mặt, biết tôi đang trả thù” - điều này chứng tỏ Kiều quyết tâm trừng trị. Nhưng giờ đây, trước lý lẽ sắc bén của Hoạn Thư, và “đánh kẻ chạy, chứ không phải đánh người chạy lại”. Hoạn Thư đã nhận lỗi, và Kiều cũng rộng lượng tha thứ. Kiều, một phụ nữ trung hậu, đã trải qua nhiều gian khổ và thử thách trong cuộc sống. Nàng hiểu rằng, mình cũng đã làm tổn thương hạnh phúc của người khác. Do đó, việc tha thứ cho Hoạn Thư là một hành động cao thượng. Hành động này phản ánh tấm lòng rộng lượng, nhân từ tuyệt vời của Thuý Kiều.
Cuộc trả thù và báo ân giữa hai phụ nữ thông minh, độc đáo nhất trong “Truyện Kiều”. Thông qua cuộc trả thù và báo ân, người đọc có thể nhìn thấy sự sáng tạo đỉnh cao của Nguyễn Du. Cảnh sân trường trung cổ được mô tả rất sống động, với sự uy nghiêm và hoành tráng. Lời thoại sắc bén đã phản ánh tốt tâm trạng và tính cách của các nhân vật: Thúc Sinh lành lặn nhưng nhút nhát, Hoạn Thư thông minh và sắc sảo; Kiều rất cao thượng, nhân hậu và rộng lượng.