Danh sách 5 bài Nhận xét của tôi về đoạn trích Cảnh ngày xuân rất ấn tượng, độc đáo nhất, sẽ giúp các bạn học sinh lớp 9 hiểu thêm về vẻ đẹp của cảnh lễ hội và không khí sôi động của mùa xuân.
Cảnh ngày xuân được mô tả trong 'Truyện Kiều' của Nguyễn Du là một trong những đoạn thơ tuyệt vời nhất. Không chỉ cho chúng ta thấy vẻ đẹp của thiên nhiên trong sáng mãi mãi mà còn cảm nhận được sự hoành tráng của một lễ hội truyền thống có ý nghĩa. Mời bạn đọc cùng khám phá bài viết sau đây từ Mytour:
Tóm tắt cảm nhận về đoạn trích Cảnh ngày xuân
I. Bắt đầu
- Giới thiệu về tác phẩm Truyện Kiều và đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của tác giả Nguyễn Du.
- Tóm tắt tổng quan cảm nhận của tôi về đoạn trích Cảnh ngày xuân.
II. Nội dung chính
1. Môi trường tự nhiên vào mùa xuân
- Thời điểm: “ngày xuân”, “chín chục đã vượt qua sáu mươi” - Thời gian trôi qua nhanh chóng, đã chuyển sang tháng thứ ba.
- Không gian: “ánh sáng rạng rỡ của mùa xuân” bao phủ không gian.
- Bức tranh tự nhiên nhấn mạnh vài điểm nổi bật:
- “Cỏ non xanh đẹp tới chân trời”: không gian rộng lớn đầy sức sống của mùa xuân.
- “Những cành lê trắng đốn điểm vài bông hoa”: sử dụng đảo ngữ để tôn vinh hình ảnh của những bông hoa lê màu trắng đặc trưng của mùa xuân.
- Động từ “điểm” gợi lên hình ảnh của bàn tay nghệ sĩ đang tô điểm những bông hoa lê, làm cho cảnh vật mùa xuân trở nên sống động và sinh động.
=> Chỉ một vài nét nhấn mạnh, tác giả đã mô tả bức tranh tự nhiên sống động.
2. Khung cảnh lễ hội trong dịp tết Thanh minh
- Tết Thanh minh được chia thành hai phần:
- Lễ Tảo mộ (dọn dẹp, trùng tu mộ phần của người đã khuất)
- Hội Đạp thanh (sự quyết tâm thực hiện chuyến du xuân).
- Bầu không khí lễ hội được mô tả qua một chuỗi các từ ngữ:
- Các từ “náo nức”, “gần xa” và “hỗn độn” phản ánh tâm trạng sôi động của người tham gia hội chợ.
- Hình ảnh “xe cộ như dòng nước, trang phục như dòng chảy” gợi lên hình ảnh đông đúc của người tham dự lễ hội.
=> Bầu không khí lễ hội đậm chất văn hóa truyền thống của dân tộc.
3. Khung cảnh chị em Thúy Kiều khi trở về
- Thời gian: “Dần dần bóng chiều dần tà” - thời điểm kết thúc của một ngày.
- Hình ảnh chị em Thúy Kiều: “Bước chân bước nhẹ về” - kết thúc lễ hội cũng là lúc con người phải trở về với cuộc sống hàng ngày.
- Hai câu cuối: miêu tả cảnh vật trên đường trở về, thể hiện tâm trạng tiếc nuối của con người.
III. Tổng kết
- Tôn vinh lại giá trị của đoạn trích Cảnh ngày xuân.
- Phản ánh cảm nhận về đoạn trích trên.
Cảm nhận cá nhân về đoạn trích Cảnh ngày xuân
Tác phẩm vĩ đại 'Truyện Kiều' của Nguyễn Du không chỉ chứa đựng những giá trị văn hóa sâu sắc mà còn gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc qua các đoạn văn tả cảnh tuyệt đẹp. Một trong số đó là đoạn trích 'Cảnh ngày xuân' (trích từ Truyện Kiều, sách Ngữ văn lớp 9, tập một - NXB Giáo dục, 2008).
Đoạn trích mở đầu tác phẩm miêu tả ngày Tết Thanh Minh, khi chị em Thúy Kiều đi tảo mộ. Mùa xuân hiện lên tươi tắn, rộn ràng dưới ánh nhìn 'xanh non biếc rờn' của các chàng trai, cô gái tuổi đôi tám.
Bốn dòng thơ đầu tiên khắc họa khung cảnh mùa xuân tươi đẹp, trong lành:
'Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quan chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa'...
Bức tranh của mùa xuân được tạo ra bằng hình ảnh những con én đang bay lượn rập rờn như thoi. Sự mạnh mẽ, khỏe khoắn của những đôi cánh đang bay cho thấy mùa xuân đang tràn đầy sức sống nhất. 'Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi' ý chỉ rằng những ngày xuân tươi đẹp đã trôi qua sáu mươi ngày, đây là thời điểm cuối cùng của tháng ba.
Bức tranh thiên nhiên được tạo ra bởi màu xanh non tươi mát của thảm cỏ lan rộng: 'Cỏ non xanh tận chân trời', sắc xanh non của tháng ba mềm mại và tươi mới. Màu xanh đẹp đó phủ kín cả 'chân trời', tạo ra cảm giác như một biển cỏ rộng lớn, hấp dẫn. Điều này có thể đã truyền cảm hứng cho Hàn Mặc Tử viết câu thơ kinh điển sau này: 'Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời'. Trên nền xanh tươi ấy, những bông hoa lê trắng tinh khôi như là điểm xuyết. Tác giả chỉ nói 'vài bông' vì có những bông hoa lê vẫn còn chưa hé nở. Nhưng hoa thì như xuân vẫn còn trẻ đang e ấp trong mùa xuân. Từ 'điểm' làm nổi bật vẻ sống động, hài hòa. Ở đây, tác giả sử dụng kỹ thuật hội họa phương Đông, đó là kỹ thuật chấm phá.
Hai câu thơ miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên mùa xuân của Nguyễn Du có thể gợi nhớ đến hai câu thơ cổ của Trung Quốc: mùi thơm của cỏ non, màu xanh tươi của cỏ kết hợp với bầu trời xanh ngọc, cành lê trắng điểm vài bông hoa. Nhưng cảnh vật trong hai câu thơ này đẹp và yên bình. Trong khi màu xanh của thảm cỏ non trải dài đến chân trời. Trên màu xanh của cỏ non đó, có vài bông hoa lê trắng (trong câu thơ cổ Trung Quốc không có đề cập đến màu sắc của hoa lê). Màu trắng của hoa lê phối hợp với màu xanh của cỏ non tạo nên nét riêng biệt trong hai câu thơ của Nguyễn Du. Chúng nói lên nhiều điều về mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, tràn đầy sức sống nhưng vẫn thanh nhã, thanh khiết và dễ chịu.
Thiên nhiên rực rỡ, tươi mới và tràn đầy sức sống, con người cũng hân hoan, sôi động để góp phần vào sự thay đổi kỳ diệu của thiên nhiên.
Sáu câu thơ tiếp theo của bài thơ mô tả hình thức viếng mộ (tảo mộ) và du xuân (hội đạp thanh) trong lễ Thanh Minh. Khí thế vui vẻ của lễ hội mùa xuân được thể hiện thông qua một loạt các từ ghép, từ tính từ, danh từ, động từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, sắm sửa, dập dìu, gần xa, nô nức. Chúng được xếp liền nhau tạo ra một không khí đông đúc, vui vẻ, sôi nổi. Điều này không chỉ là không khí của lễ hội mà còn đậm chất trẻ trung, tươi mới của tuổi trẻ:
'Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm'.
Nhưng sau những khoảnh khắc sôi động, buổi hội phải tan rồi. Sau lễ hội sôi động, chị em Thúy Kiều phải rời xa để trở về:
'Tà tà bóng ngả về tây,
Bước chân theo dòng nước bay,
Ngắm phong cảnh có vẻ êm đềm.
Những dòng nước mênh mông dạt dào,
Dấu vết nhỏ nhặt gần đáy bắc ngang' ...
Bên cạnh vẻ thanh thoát, dịu dàng của mùa xuân như đã mô tả ở các câu thơ trước đó, khung cảnh mùa xuân ở đây đem lại một sắc thái khác với bức tranh sôi động, náo nhiệt của lễ hội. Cảnh vật phản ánh sự vắng bóng sau khi cuộc vui đã kết thúc. Các từ như tà tà, thả hồn, êm đềm, mênh mông, nhỏ nhặt không chỉ mô tả cảnh vật mà còn gợi lên tâm trạng của con người. Cảm giác mơ hồ, nỗi buồn rối bời dường như đang len lỏi vào, cảnh vật đã mang màu sắc của sự vắng bóng, nặng nề của tâm trạng con người. Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng phong cách tả cảnh để diễn đạt những cảm xúc tinh tế trong lòng con người, đặc biệt là của những thiếu nữ. Những từ được sử dụng trong đoạn thơ là những từ mang tính giảm nhẹ. 'Tà tà' mô tả cảnh chiều buông dần; 'thả hồn' diễn đạt tâm trạng thoải mái, bất chợt không biết từ đâu (gần với cảm giác buồn 'tôi buồn không rõ nguyên nhân' của Xuân Diệu sau này) 'êm đềm' không chỉ có nghĩa là màu xanh nhẹ nhàng mà còn ám chỉ sự thanh thoát, nhẹ nhàng; 'mênh mông' trong câu thơ tả thế chảy của dòng nước nhưng cũng mô tả tâm trạng mơ hồ buồn và từ 'nhỏ nhặt' gợi dáng nhỏ xinh, gọn gàng, vừa vặn với cảnh với tâm. Khung cảnh thiên nhiên cũng theo đó mà nhỏ đi để phù hợp với tâm trạng con người: 'ngọn tiểu khê' - dòng suối nhỏ, phong-cảnh thanh thoát, dịp cầu 'nhỏ' lại nằm ở 'cuối ghềnh' ở phía xa xa,... Cảnh và người như có sự kết nối để hòa quện trong không khí bất an, thổn thức, lưu luyến, nhẹ nhàng buồn bã. Có lẽ có thể cảm nhận được cảnh vật đang gợi lên dự cảm về những sự kiện sắp xảy ra.
Phần 'Cảnh ngày xuân' có cấu trúc cân đối, hợp lý. Mặc dù không rõ ràng nhưng cũng có thể nói đến cấu trúc ba phần: mở đầu, phát triển và kết thúc. Nguyễn Du đã thể hiện một nghệ thuật miêu tả thiên nhiên tinh tế, khéo léo. Trong đoạn trích, mặc dù chủ yếu là miêu tả cảnh xuân nhưng vẫn thấy sự kết hợp với biểu cảm và tự sự (sự phát triển của cuộc viếng mộ, du xuân của chị em Thúy Kiều, dự đoán về sự kiện sắp xảy ra).
'Cảnh ngày xuân' là một trong những đoạn thơ tả cảnh hay nhất trong 'Truyện Kiều' của Nguyễn Du. Đọc đoạn trích, người đọc không chỉ thán phục về bức tranh thiên nhiên trong sáng không giới hạn mà còn cảm nhận được vẻ đẹp của một lễ hội truyền thống ý nghĩa: lễ Thanh Minh. Và qua đây, Nguyễn Du cũng thể hiện tài hoa trong việc xây dựng một bức tranh tả cảnh ngụ tình tinh tế,... Với những điều đó, 'Cảnh ngày xuân' sẽ mãi mãi sống trong lòng những người yêu thơ mỗi khi năm mới về.
Cảm nhận đoạn trích Cảnh ngày xuân - Mẫu 1
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một trong những kiệt tác văn học đã thể hiện những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của thời đại. Điểm nổi bật trong tác phẩm là đoạn trích “Cảnh ngày xuân” đã mô tả bức tranh thiên nhiên cùng lễ hội mùa xuân tươi đẹp trong sáng.
“Cảnh ngày xuân” nằm ở đoạn đầu của tác phẩm. Nội dung của đoạn này kể về ngày Tết Thanh minh, chị em Thúy Kiều đi tảo mộ. Thiên nhiên và con người trong ngày xuân hiện lên tươi tắn, xinh đẹp, đông vui nhộn nhịp dưới ánh mắt “xanh non biếc rờn” của những chàng trai, cô gái tuổi đôi tám.
Bốn câu thơ mở đầu mang lại cho người đọc một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp:
“Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Không gian mùa xuân được mô tả bởi hình ảnh những cánh én đang bay lượn rất nhẹ nhàng. Sức mạnh của những nhịp cánh cho thấy mùa xuân đang tràn đầy sức sống. Điều này được thể hiện qua câu “thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”, tức là thời gian mùa xuân đã qua đi hơn sáu mươi ngày, có nghĩa là hiện tại là tháng ba. Bức tranh thiên nhiên còn được mô tả bởi màu xanh non, tươi mát của thảm cỏ trải ra mênh mông: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Màu xanh tươi của cỏ tháng ba làm cho ta như thấy cả một biển cỏ đẹp mắt. Cảnh vật còn được trang trí bởi sắc trắng tinh khôi của vài bông hoa lê. Chỉ có “vài bông” vì những bông hoa lê đang chưa muốn nở hết. Những bông hoa lê như những thiếu nữ đang e ấp. Chữ “điểm” mang lại sự sinh động, hài hòa. ở đây, tác giả đã sử dụng bút pháp hội hoạ phương Đông, đó là bút pháp chấm phá.
Hai câu thơ miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên trong ngày xuân của Nguyễn Du có thể khiến người đọc nhớ đến hai câu thơ cổ của Trung Quốc: hương thơm của cỏ non, màu xanh mướt của cỏ kết nối với bầu trời xanh ngọc, cành lê đính kèm vài bông hoa. Tuy nhiên, bức tranh trong hai câu thơ này không chỉ đẹp mà còn yên bình tĩnh lặng.
Sáu câu thơ tiếp theo của bài thơ tái hiện lại khung cảnh của lễ hội trong ngày Thanh Minh:
“Gần xa náo nức tiếng yến anh
Chị em trang hoàng chuẩn bị đi chơi xuân
Dồn đảo người tài tử giai nhân
Ngựa xe như dòng nước, áo quần như lớp vải”
Ở đây, lễ hội là “tảo mộ” (viếng mộ, trang trí mộ của người thân) và hội là “đạp thanh” (hội đạp thanh) trong ngày Thanh Minh. Không khí sôi động của lễ hội mùa xuân được tái hiện qua một loạt từ ghép tính từ, danh từ, động từ: “yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, trang hoàng, dồn đảo, gần xa, náo nức”. Các từ này được xếp kề nhau tạo ra không khí đông đúc, vui vẻ sôi động. Đó không chỉ là không khí của lễ hội mà còn mang đậm sắc tươi trẻ của tuổi xuân.
Nhưng cuối cùng, lễ hội cũng phải kết thúc. Sau những khoảnh khắc sôi động, chị em Thúy Kiều tiếc nuối rời xa:
'Bóng chiều dần nghiêng về phương tây,
Thơ thẩn dạo bước, hai tay dẫn về.
Bước dọc theo dòng suối nhỏ,
Ngắm phong cảnh thanh thanh hữu bề.
Dòng nước xoáy vây nhẹ,
Chiếc cầu nhỏ cuối con đường nghiêng bắc ngang' ...
Ngoài vẻ thanh thoát, dịu dàng của mùa xuân như đã thấy trong những dòng thơ trước đó, khung cảnh mùa xuân ở đây mang một phần màu sắc khác biệt với bức tranh của một lễ hội náo nhiệt, sôi động. Cảnh vật phản ánh sự lưu luyến khi cuộc du xuân đã đi qua. Những từ như 'tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ' vừa mô tả vẻ đẹp của cảnh vật, vừa làm nổi bật tâm trạng của con người. Có vẻ như có điều gì đó mơ hồ xâm chiếm, khiến cảnh vật trở nên u ám, man mác, phản ánh tâm trạng của con người. Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để mô tả những xúc cảm tinh tế trong tâm hồn con người. Những từ như 'tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ' đều mang tính chất nhẹ nhàng: 'tà tà' để diễn tả bóng chiều nghiêng về phương tây; 'thơ thẩn' để diễn tả tâm trạng hồi hợp nhẹ nhàng không rõ nguồn gốc; 'thanh thanh' không chỉ là sắc xanh nhẹ nhàng mà còn làm nổi bật vẻ thanh thoát, mảnh mai; 'nao nao' để mô tả thế chảy của dòng nước nhưng cũng làm nổi bật tâm trạng nao nao buồn và cuối cùng 'nho nhỏ' gợi nhớ hình ảnh nhỏ xinh xắn, vừa vặn với cảnh với tình. Khung cảnh thiên nhiên cũng được làm nhỏ đi để phù hợp với tâm trạng của con người: 'ngọn tiểu khê' - dòng suối nhỏ, phong cảnh trở nên thanh thoát với nhịp cầu 'nho nhỏ' nằm ở 'cuối ghềnh' ở phía xa xa... Cảnh vật và con người như hòa quyện vào nhau trong không khí u ám, lưu luyến, khe khẽ xao xuyến. Có lẽ có thể mơ hồ cảm nhận được cảnh vật đang gợi lên dự cảm về những sự kiện sắp xảy ra.
Với đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, Nguyễn Du đã thể hiện một nghệ thuật miêu tả thiên nhiên tinh tế, sắc sảo. Mặc dù tập trung chủ yếu vào việc mô tả cảnh ngày xuân, nhưng vẫn thấy sự kết hợp với biểu cảm và suy tư cá nhân.
Do đó, “Cảnh ngày xuân” là một trong những đoạn thơ miêu tả cảnh đẹp nhất trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Khi đọc đoạn trích này, người đọc không chỉ ngưỡng mộ bức tranh thiên nhiên tươi sáng vô cùng mà còn cảm nhận được vẻ đẹp của một lễ hội truyền thống đầy ý nghĩa. Đoạn trích này sẽ mãi sống trong lòng những người yêu thơ vào mỗi dịp đầu năm khi chúa xuân về.
Nhận xét về đoạn trích “Cảnh ngày xuân” - Mẫu 2
Nguyễn Du - một trong những tác giả đáng chú ý của văn học dân tộc. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” từ Truyện Kiều đã mang lại cho người đọc cảm nhận về hình ảnh mùa xuân sôi động, tràn đầy sức sống.
Mùa xuân luôn là đề tài vô cùng phong phú trong thơ ca, là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều nghệ sĩ. Mỗi người lại có cảm nhận riêng về mùa xuân. Với Nguyễn Du, mùa xuân gắn liền với cảnh vật và con người, với những ngày lễ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bao phủ lên đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên tươi mới, gần gũi nhưng cũng ẩn chứa một chút buồn khi ngày đã điểm chiều.
Những câu thơ mở đầu được viết bằng ngôn từ đẹp như tranh, sự lưu loát của từ ngữ đã tái hiện một cách sống động cảnh sắc thiên nhiên trong mùa xuân:
“Én lượn trong không gian mùa xuân,
Bầu trời xanh biếc đã chín mươi ngày.
Cỏ non xanh mơn mởn chân trời,
Cành lê trắng điểm vài bông hoa”
Thiên nhiên trong ngày xuân hiện ra với một bức tranh thơ mộng đẹp biết bao. Sự rộng lớn của trời đất khi mùa xuân về được miêu tả một cách tinh tế và tràn đầy niềm vui. Cánh én - biểu tượng của mùa xuân đã trở lại, mang lại sự ấm áp, sự sống tràn đầy và niềm vui to lớn. Cùng với đó là từ “lượn trong không gian” đã vừa gợi lên hình ảnh bầu trời rộng lớn với đàn én vỗ cánh, vừa diễn tả sự trôi qua nhanh chóng của thời gian.
Chỉ với hai nét đơn giản nhưng Nguyễn Du đã tạo ra một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tuyệt vời trên giấy. Nghệ thuật điểm xuyết đã được sử dụng một cách tinh tế, làm cho câu thơ trở nên mềm mại và tràn đầy sức sống hơn. Màu xanh của cỏ non mang đến sự tươi mới và trong lành của thiên nhiên. Từ “rợn” vừa mô tả cái xa, vừa gợi lên sự rộng lớn của mùa xuân, của cảnh vật khi xuân về. Nó khiến cho câu thơ trở nên vô cùng sống động, như là một tiếng hát vang vọng trên đồng cỏ xanh mơn mởn. Trên nền xanh của cỏ và bầu trời, những “bông hoa trắng tinh khiết” điểm xuyết làm cho không gian trở nên hài hòa và sinh động. Với bốn câu thơ đầu tiên, Nguyễn Du đã mở ra một bức tranh tự nhiên tươi đẹp đầy hòa quyện.
Không chỉ là cảnh thiên nhiên, với Nguyễn Du không khí mùa xuân còn hiện hữu qua những lễ hội truyền thống của dân tộc:
“Trong tiết thanh minh tháng ba,
Tảo mộ là lễ, đạp thanh là hội”
Khung cảnh của lễ hội diễn ra cùng với sự xuất hiện của con người như là điểm nhấn thêm vào bức tranh mùa xuân tươi đẹp đó:
“Dẫn dắt tài tử và người đẹp,
Xe ngựa như nước, áo quần như nêm”
Mùa xuân là thời điểm để “tài tử và người đẹp” cùng vui chơi, thoải mái chia sẻ tâm tư với nhau. Đây cũng là lúc thích hợp nhất cho những câu chuyện tình yêu bắt đầu nảy nở. Hình ảnh của “xe ngựa”, “bộ áo quần” tạo ra cảm giác sôi động, nhộn nhịp và sôi động. Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng loạt hình ảnh này để gợi lên không khí mùa xuân trong lòng người đọc.
“Đồi gò nghiêng, đất đai xôn xao,
Vụn vàng lay lắt phủ bằng tờ tiền giấy mờ bay”
Những giá trị văn hóa truyền thống được Nguyễn Du mô tả một cách chân thực và giản dị. Đó là lòng biết ơn sâu sắc dành cho quá khứ, với sự tôn trọng chân thành nhất. Hai câu thơ này thật sự gợi lại những cảm xúc sâu xa khi nhớ về những người đã ra đi, những người đã góp phần tạo nên cuộc sống ngày nay của chúng ta.
Cảnh vật cuối đoạn trích lại hiện lên với chút buồn bã:
“Bóng chiều dần dần về tây,
Chị em bước chậm tay cõng theo tấm lòng về
Đi theo dòng suối khê khuất
Ngắm phong cảnh nhẹ nhàng thoải mái”
Nhịp thơ ở đây đột ngột trở nên nhẹ nhàng, sâu lắng làm cho tâm trạng của con người trở nên u uất và buồn bã hơn. Bằng từ 'tà tà' đã một phần mô tả được thời gian đã điểm chiều và không gian như trở nên lặng yên và âm trầm hơn. Mỗi bước chân cũng dường như trở nên nặng nề hơn khi màn đêm đang buông xuống, con người cũng cảm nhận được một nỗi buồn nào đó hiện diện trong lòng. Tâm tư của con người như hòa quyện vào cảnh sắc thiên nhiên, khiến cho nó trở nên u ám và lẻ loi hơn.
Tóm lại, đoạn trích “Cảnh ngày xuân” đã mang lại cho chúng ta những cảm nhận về một bức tranh xuân tươi vui, rực rỡ, sôi động và có chút buồn bã. Nguyễn Du thực sự là một tài hoa của văn học dân tộc.
Cảm nhận đoạn trích Cảnh ngày xuân - Mẫu 3
Truyện Kiều là một trong những kiệt tác của văn học Việt Nam thời trung cổ. Nổi bật trong tác phẩm là đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, vẽ nên một bức tranh xuân tươi sáng, đẹp đẽ và cũng rất rộn ràng.
Đoạn trích này được Nguyễn Du xây dựng theo trình tự thời gian, rất phù hợp với tâm trạng của con người trong cuộc du xuân: bốn câu mở đầu mô tả khung cảnh xuân, tám câu tiếp theo mô tả cảnh lễ hội trong tiết Thanh Minh, và sau đó là sáu câu cuối về chị em Kiều ra về.
Đầu tiên, nhận định về một bức tranh thiên nhiên sống động, tươi đẹp và đầy sức sống:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
Tác giả đã khéo léo sử dụng kỹ thuật kể và mô tả. Hai câu đầu vừa nói về thời gian, vừa gợi lên không gian của mùa xuân. Ngày xuân lướt qua nhanh chóng đã trải qua “sáu mươi ngày” bước sang tháng ba. Câu đầu bài thơ tả cảnh ngày xuân với những chú én bay rợp trời trong xanh như con thoi đưa. Trong khi bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử viết: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời” thì Nguyễn Du lại tả khác: “Cỏ non xanh đến chân trời”. Ở đây, nhà thơ muốn thể hiện sắc cỏ non xanh tươi mát, mềm mại lan tỏa tới chân trời, làm nổi bật sự ảnh hưởng sâu sắc của Nguyễn Du đối với Hàn Mặc Tử. Bức tranh xuân được dệt từ những màu sắc tinh tế, quý phái phối màu hài hòa giữa hai gam màu xanh và trắng; giữa màu vàng và màu đỏ tạo nên sự ấm áp mà không quá lòe loẹt. Đường nét, hình khối mà nhà thơ lựa chọn đều thanh thoát ở mọi góc nhìn. Cánh én uốn cong, những người đi đón lễ khiến bức tranh trở nên ấm áp; khiến cảnh vật trở thành “nửa thực, nửa mộng”.
Tiếp theo là khung cảnh lễ hội:
“Gần xa náo nức yến anh
Chị em ăn diện đi chơi xuân
Dải dẫy tài tử, những người đẹp
Ngựa xe trôi như nước, áo quần tỏa hương”
Chị em Thúy Kiều xen lẫn giữa dòng người đông đúc như yến anh để tham dự lễ tảo mộ ở quê hương. Họ đi dạo, ngắm nhìn cảnh đồng quê thanh bình và thả thoi tiền giấy bay trong gió. Sử dụng nhiều từ ghép và từ láy như “gần xa, nô nức, tài tử, giai nhân, dập dìu”, Nguyễn Du đã mô tả cuộc du xuân của chị em Kiều trong không khí lễ hội sôi động, náo nhiệt. Thông qua hành trình xuân của chị em Kiều, Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh về truyền thống văn hóa xa xưa.
Cuối cùng sau khi kết thúc lễ hội, chị em Thúy Kiều “ngẩn ngơ trở về”:
“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em dạo chân ra về bên kia sông
Bước dần theo làn gió khẽ khàng
Lần xem phong cảnh có vẻ dịu dàng”
Cảnh vật tỏa lên vẻ u buồn khi cuộc du xuân kết thúc. Các từ láy “tà tà, ngẩn ngơ, dịu dàng, nao nao, nho nhỏ” không chỉ mô tả sắc thái cảnh vật mà còn gợi lên tâm trạng của con người. Dường như có điều gì đó mơ hồ xâm lấn, cảnh vật đã nhuốm sắc u buồn, sâu lắng của tâm trạng con người.
Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một bức tranh xuân tươi sáng và đẹp đẽ, một bức tranh “thi trung hữu họa”. Người đọc có thể cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên trong thơ của Nguyễn Du, được tạo ra từ tâm hồn nhạy cảm và ngòi bút tài hoa của nhà thơ vĩ đại của dân tộc.
Nhận định về đoạn trích Cảnh ngày xuân - Mẫu 4
Truyện Kiều là một trong những tác phẩm vĩ đại của nhà văn Nguyễn Du. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” (trích Truyện Kiều) đã mô tả bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân tươi đẹp.
Với bốn câu thơ đầu tiên, Nguyễn Du đã tạo nên cảm giác về cảnh thiên nhiên:
“Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Mùa xuân đến với sự hiện diện của “cánh én đưa thoi” - biểu tượng của mùa xuân. Thời gian của ngày xuân đã “ngoài sáu mươi”, tức là đã vào tháng ba. Câu thơ gợi lên sự chuyển động của thời gian, tháng ba đã đến. Ánh sáng của mùa xuân chiếu sáng không gian. Trong không gian đó, bức tranh thiên nhiên xuất hiện với một số chi tiết nổi bật. Cỏ non màu xanh rợn ngọn đến tận chân trời, tượng trưng cho sự sống. Và có vài bông hoa lê trắng nổi bật giữa màu xanh của cỏ. Sử dụng kỹ thuật đảo ngữ, tác giả làm nổi bật hình ảnh của hoa lê trắng, biểu tượng của mùa xuân. So với một câu thơ cổ Trung Quốc:
“Hương thơm của cỏ lan tỏa đến mọi nẻo đường
Trên cành lê, một vài bông hoa đang nở rộ”
(Mùi cỏ thơm trải khắp bầu trời xanh
Trên cành lê, có vài bông hoa rực rỡ)
Để hiểu hết tài năng của Nguyễn Du, người đọc cần chiêm nghiệm bức tranh thiên nhiên trong câu thơ cổ Trung Quốc, một bức tranh xuân tràn đầy hương vị, màu sắc và đường nét: Mùi cỏ thơm lan tỏa khắp không gian, trên cành lê nở rộ một vài bông hoa. Cảnh vật hiện lên như một bức tranh yên bình.
Với câu thơ của Nguyễn Du, không gian thiên nhiên lại rộng lớn và tràn ngập sức sống của mùa xuân. Hình ảnh “Trên cành lê, một vài bông hoa rực rỡ”: đảo ngữ nhấn mạnh hình ảnh những bông hoa lê trắng đặc trưng cho mùa xuân. Từ “rực rỡ” gợi lên hình ảnh những bông hoa đang tỏa sáng, tô điểm cho cảnh mùa xuân tươi đẹp, khiến cảnh vật trở nên sống động, tràn đầy sức sống.
Tiếp theo, tác giả mô tả khung cảnh lễ hội Thanh minh diễn ra với hai phần: lễ Tảo mộ (dọn dẹp, sửa sang mộ người đã khuất) và hội Đạp thanh (ý chí hành động du xuân):
“Khi thanh minh đến trong tháng ba,
Lễ Tảo mộ, hội Đạp thanh.
Khắp nơi rộn ràng tiếng yến anh,
Chị em trang hoàng sẵn sàng đi hội xuân.
Quần áo trang trí, quý phái,
Con ngựa chạy như nước, trang phục như nêm.
Đống gò đổ dồn lên một bên,
Thoi vàng và vó rủ nhau bay giấy tiền”
Không khí của lễ hội được diễn tả thông qua các từ ngữ như “rộn ràng”, “nô nức”, và “đống gò ngổn ngang”, phản ánh tâm trạng của những người tham gia. Kết hợp với hình ảnh “con ngựa chạy như nước, trang phục như nêm”, tác giả Nguyễn Du đã mô tả một khung cảnh lễ hội sôi động, đậm chất truyền thống văn hóa dân tộc.
Tuy nhiên, mọi niềm vui đều có hồi kết, và khi hoàng hôn buông xuống, chị em Thúy Kiều cũng phải trở về:
“Bóng chiều đổ, về hướng tây,
Chị em bước ra về với vẻ thơ thẩn.
Dần dần theo con dòng xiểu,
Ngắm phong cảnh bề thề thanh thanh.
Dòng nước uốn quanh vỗ quanh,
Chiếc cầu nhỏ nằm cuối dòng”
Trước hết, tác giả mô tả thời điểm đó là “bóng chiều đổ, về hướng tây” - thời điểm kết thúc của một ngày, khi mọi người quay về nhà sau một ngày làm việc. Tiếp theo là hình ảnh chị em Thúy Kiều hiện lên với vẻ “thơ thẩn” khi họ rời khỏi lễ hội, điều này diễn ra khi lễ hội kết thúc và mọi người trở về cuộc sống hàng ngày. Hai câu cuối cùng đã mô tả cảnh vật trên đường về, phản ánh tâm trạng tiếc nuối của chị em. Những từ ngữ như “thơ thẩn”, “thanh thanh”, “nước uốn quanh” và “cầu nhỏ” vừa mô tả âm thanh, vừa diễn tả tâm trạng của họ. Cảnh vật và con người dường như hòa quyện vào nhau trong không khí dày đặc của sự tiếc nuối và lưu luyến. Qua những dòng thơ này, người đọc như cảm nhận được những sự kiện sắp diễn ra.
Tóm lại, phần đoạn này của “Cảnh ngày xuân” đã làm cho người đọc cảm nhận được không khí của mùa xuân với hình ảnh tự nhiên và lễ hội truyền thống của dân tộc. Nguyễn Du thật sự là một nhà văn tài năng với tác phẩm vĩ đại 'Truyện Kiều'.