Các biện pháp ẩn dụ trong Truyện Kiều sử dụng lời ít ý nhiều để thành công miêu tả ngoại hình và tâm trạng của nhân vật. Bên cạnh đó, học sinh có thể tham khảo thêm bài Tóm tắt Truyện Kiều, Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong 'Cảnh ngày xuân' để nắm vững kiến thức môn Văn.
Dàn ý phân tích biện pháp tu từ ẩn dụ trong Truyện Kiều Kiều
1. Bắt đầu:
- Giới thiệu về tác phẩm: “Truyện Kiều” là một tác phẩm truyện thơ Nôm viết theo thể lục bát, là sự hoàn thiện về thơ ca và văn hóa dân tộc.
- Về việc sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ của Nguyễn Du: Ước lệ tượng trưng, tả cảnh ngụ tình là những biện pháp tu từ ẩn dụ được sử dụng để xây dựng nhân vật và cảnh vật trong văn học Trung đại. Nguyễn Du đã nâng cao giá trị của các biện pháp tu từ ẩn dụ này lên một tầm cao mới, toàn diện. Bốn đoạn trích đã học đã làm cho ta thấy điều đó.
2. Nội dung chính:
a. Cách sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ trong đoạn trích về Chị em Thúy Kiều
- Sử dụng hình ảnh thiên nhiên để ẩn dụ vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều.
- “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”: tính cách thẳng thắn như cành mai, hình dáng duyên dáng như hoa mai, tinh thần trong trắng thánh thiện như tuyết.
- Bốn dòng thơ tiếp theo miêu tả Thúy Vân: “khuôn trăng” - khuôn mặt phúc hậu, xinh đẹp như trăng rằm; “hoa cười ngọc thốt” – cười tươi như hoa, tiếng nói trong trẻo như ngọc; “mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” - tóc mượt hơn mây, da trắng hơn tuyết.
- Mô tả Thúy Kiều: “Làn nước thu, nét núi xuân/ Hoa không kém sắc, liễu còn chần chừ xanh” – sử dụng hình ảnh của dòng nước mùa thu, nét núi mùa xuân để diễn đạt vẻ đẹp của đôi mắt Kiều. Kiều đẹp đến mức mà hoa, cây liễu phải ghen tị.
⇒ sử dụng thiên nhiên để ẩn dụ vẻ đẹp của con người, đặc biệt là người phụ nữ, tác giả vừa thể hiện nghệ thuật truyền thống vừa thể hiện tinh thần tiến bộ, tôn trọng phái đẹp.
b, Biện pháp tu từ ẩn dụ trong đoạn trích Cảnh ngày xuân
- Ẩn dụ về “yến anh” để diễn đạt về sự sôi động, vui tươi của khách mời tham dự hội.
- Ẩn dụ về “ngựa xe”, “áo quần” để chỉ người tham gia hội, diễn đồng thời với so sánh “như nước”, “như nêm” tạo nên một bức tranh rực rỡ, sống động, náo nhiệt.
c, Biện pháp tu từ ẩn dụ trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều
- Ẩn dụ: “bước hoa, hàng hoa”, “dừng hoa, tình tứ nhìn gương mặt béo tròn”, sử dụng hoa để mô tả về Thúy Kiều trong ngày bán mình cho Mã Giám Sinh.
⇒ Diễn đạt về sự đau buồn, sự miễn cưỡng nhưng vẫn thấy vẻ đẹp của Kiều.
d, Biện pháp tu từ ẩn dụ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
“Kiều ở lầu Ngưng Bích” sử dụng biện pháp tả cảnh ngụ tình để diễn đạt tâm trạng của Thúy Kiều:
- Ẩn dụ: “người dưới ánh trăng, bên cạnh nhau”, “đợi ngày mai”, “nơi yên bình” để nói về Kim Trọng và mối tình hạnh phúc nhưng chưa trọn vẹn của hai người; “người dựa vào cửa”, “sân sau”, “gốc cây” nói về cha mẹ của Thúy Kiều, thể hiện tình cảm lo lắng, hiếu thuận của Kiều. Hình ảnh cửa sổ, cánh buồm, dòng nước, hoa nở, nhà vắng, đất lạnh, gió, sóng đều ẩn dụ về hoàn cảnh, số phận cô đơn, lênh đênh của Kiều.
- Hoán dụ: “hồn son” – nói về danh dự, nhân phẩm, lòng kiêng kỵ của Thúy Kiều, cũng như về bản thân Kiều. Trong niềm nhớ nhung, nỗi đau tình yêu, Thúy Kiều luôn chịu đựng nỗi đau danh dự.
- Thường ngày “buồn trông” lặp lại 4 lần: diễn tả tâm trạng lo sợ, cô đơn và tuyệt vọng của Thúy Kiều.
3. Kết thúc:
- Các biện pháp ẩn dụ đều sử dụng từ ít để diễn tả ngoại hình, tâm trạng của nhân vật.
- Nguyễn Du đã kết hợp các biện pháp tu từ một cách hiệu quả.
Phân tích biện pháp tu từ ẩn dụ trong Truyện Kiều - Mẫu 1
Nguyễn Du là một danh họa văn học, ông không chỉ tài năng trong việc áp dụng thể thơ lục bát dân tộc để sáng tác nên Truyện Kiều bất hủ. Để đạt được thành công cho tác phẩm của mình, không thể không nhắc đến khả năng linh hoạt trong việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật ẩn dụ. Trong phạm vi của một bài luận ngắn nhưng chúng tôi chỉ tập trung vào nghệ thuật ẩn dụ trong mô tả con người và cảnh vật.
Trước hết, về nghệ thuật ẩn dụ trong mô tả con người của Nguyễn Du đã đạt đến mức độ tinh tế, xuất sắc. Bằng những nét vẽ đơn giản nhưng ông đã tạo ra vẻ đẹp tinh thần của hai nhân vật Kiều:
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần”
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”.
Và để từ đó từng bước lộ ra hình ảnh của hai người phụ nữ:
Vân nhìn trang nghiêm khác biệt
…
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Tác giả đã tạo ra bức chân dung của Thuý Vân bằng việc sử dụng nghệ thuật so sánh ẩn dụ và ngôn từ thơ lựa chọn kỹ lưỡng, tinh tế: khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, tươi sáng như trăng rằm; lông mày sắc nét như ngọc trai; nụ cười tươi thắm như hoa; giọng nói trong trẻo; mái tóc đen óng ả hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn. Còn đối với Thúy Kiều, không đi vào chi tiết, chỉ tập trung vào đôi mắt đầy cảm xúc của nàng:
“Dòng nước thu, nét non xuân
Hoa ghen thua sắc liễu, mây nhường màu xanh”.
Nghệ thuật điểm nhấn này đặc trưng cho văn học thời Trung Đại. Tác giả không miêu tả chi tiết như Thúy Vân, chỉ tập trung vào những điểm đặc biệt nhất, có hồn nhất để làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật. Đối với Kiều, nét đặc biệt đó chính là đôi mắt và đôi mày. Mắt nàng như dòng nước mùa thu trong vắt, gợi lên vẻ đẹp thông minh, đa tình, đầy cảm xúc, ẩn dưới nét mày như cánh vẽ của Kiều. Còn đôi mày như dáng núi mùa xuân, tươi trẻ và đầy sức sống. Hệ thống hình ảnh ẩn dụ được sử dụng để miêu tả vẻ đẹp của Kiều: “thu thủy”, “xuân sơn”, “hoa”, “liễu”. Với vẻ đẹp của Thúy Kiều, thiên nhiên phải “hờn”, “ghen”, báo trước một số phận đầy sóng gió. Kết hợp với bút pháp gợi tả và nghệ thuật ẩn dụ tài tình, Nguyễn Du đã tạo ra hai mĩ nhân tuyệt đẹp, đặc biệt là nhan sắc của nàng Kiều. Thúy Kiều đẹp vượt ngoài quy chuẩn của thiên nhiên, là nhan sắc tuyệt vời, nhưng sau đằng sau là một số phận đầy sóng gió, truân chuyên.
Không chỉ thành thạo trong việc sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để miêu tả người, Nguyễn Du còn rất khéo léo khi áp dụng nó vào việc miêu tả khung cảnh thiên nhiên. Đó là cảnh lễ hội mùa xuân náo nhiệt, vui vẻ, nam nữ thanh niên vui vẻ đi chơi xuân:
Gần xa nô nức yên anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Nguyễn Du đã sử dụng hình ảnh của chim yến và chim oanh để miêu tả cảnh nam nữ thanh niên, nhóm người hân hoan đi chơi xuân như chim én, chim oanh vỗ cánh. Và điều đặc biệt nhất là nghệ thuật ẩn dụ trong tám câu thơ cuối của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, nơi nghệ thuật ẩn dụ đã đạt đến độ tài tình.
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Điệp từ “buồn trông” ở đầu mỗi câu tạo nên âm điệu trầm buồn, mở ra bốn cảnh khác nhau, mỗi cảnh lại là một tâm trạng khác nhau của Kiều. Nỗi buồn đó ngày càng sâu sắc, lan tràn qua nghệ thuật tăng cấp. Kết hợp với điệp từ là những hình ảnh so sánh ẩn dụ đặc sắc, giàu ý nghĩa. Con thuyền cô đơn ấy chẳng phải là ẩn dụ cho cuộc sống lênh đênh của nàng Kiều sao. Hình ảnh con thuyền cũng biểu tượng cho khát khao đoàn tụ, sum họp gia đình của nàng. Hình ảnh ẩn dụ “hoa trôi man mác” là biểu tượng cho thân phận chìm nổi, mong manh của Kiều. Kiều giống như cánh hoa, lênh đênh theo dòng đời, không biết số phận sẽ ra sao, không biết sẽ trôi về đâu. Câu hỏi “biết là về đâu” như tiếng than ai oán càng nhấn mạnh sự vô định của số phận. Từ đó tăng thêm nỗi buồn về sự phụ thuộc, bé bỏng. Và khung cảnh thiên nhiên trở nên dữ dội hơn nữa, màu xanh nhạt, héo úa, sóng cuồn cuộn bủa vây người con gái nhỏ bé, đáng thương. Lời độc thoại “buồn trông” lặp đi lặp lại cùng với các hình ảnh ẩn dụ đặc sắc càng làm sâu sắc nỗi buồn dai dẳng của Thúy Kiều.
Với ngôn từ súc tích, kết hợp với các biện pháp nghệ thuật đặc biệt như ẩn dụ, Nguyễn Du đã làm cho tác phẩm của mình trở nên sống động, chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa để người đọc khám phá. Nghệ thuật ẩn dụ trong Truyện Kiều đã đạt đến đỉnh cao, truyền tải tư tưởng nhân văn của thi hào Tố Như.
Phân tích biện pháp tu từ ẩn dụ trong Truyện Kiều - Mẫu 2
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du là tác phẩm kiệt xuất trong văn học cổ Việt Nam. Mặc dù mượn đề tài từ “Kim Vân Kiều Truyện” của tác giả Thanh Tâm (Trung Quốc), nhưng câu thơ lục bát dài 3254 câu này vẫn mang đậm bản sắc dân tộc, chứa đựng một tình yêu lớn lao như “rung động đất trời” (Tố Hữu).
Về mặt nghệ thuật, tác phẩm này là một tượng đài và đỉnh cao của ngôn ngữ thi ca và xây dựng nhân vật. Đọc “Truyện Kiều”, ta cảm nhận được rằng: “Nguyễn Du có tài vận dụng các biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt là ẩn dụ' như giáo sư Đặng Thanh Lê đã nhận xét.
Khi miêu tả cảnh vật cũng như khi miêu tả con người, miêu tả tình cảm, với sự sáng tạo đặc biệt của một thiên tài, Nguyễn Du đã sử dụng nhiều biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt là miêu tả ẩn dụ làm cho câu thơ, đoạn thơ trở nên phong phú về hình ảnh và biểu cảm.
Mùa xuân tràn về trong ngày hội “Đạp Thanh” của tuổi trẻ. Ba chị em Kiều cũng “chuẩn bị thật đẹp để vui chơi cùng mùa xuân”. Khắp nơi, đám đông kéo dài vô tận:
“Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Con đường như dòng người, nhà cửa như đỉnh núi.”
Qua biện pháp tu từ hoán dụ (ngựa xe, áo quần), so sánh (… như nước … như nêm) và đối (2 vế câu 8 đối nhau) nhà thơ đã tái hiện cảnh trẩy hội mùa xuân đông đúc, vui vẻ, sôi động của các nhà quý tộc, những người tài giỏi.
Dưới đây là hai câu tỏ tình của chàng Kim:
“Cho tôi được nói vài điều,
Bông sen sáng lên, dấu bèo còn thấy không?”
“Dấu bèo” (ẩn dụ) chỉ người thấp kém, tầm thường. Kim Trọng khiêm nhường, nhún vai. “Bông sen” (ẩn dụ) chỉ con người quý phái, được tôn trọng. “Bông sen sáng lên…” (nhân hóa): lời tỏ tình tế nhị. Chàng Kim hào hoa, đa tình diễn đạt lòng mình với người đẹp, bày tỏ lòng yêu thương mãnh liệt. Cách thể hiện tình cảm vừa lãng mạn vừa sâu lắng.
“Ở trước cổng Ngưng Bích” là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc trong “Truyện Kiều'. Tác giả sử dụng khéo léo các biện pháp tu từ như điệp ngữ, ẩn dụ, hoán dụ,… để viết ra những vần thơ tuyệt vời. Điệp ngữ “Buồn trông” xuất hiện ở đầu câu sáu, lặp lại bốn lần liên tiếp, làm nổi lên nỗi buồn sâu thẳm, triền miên, đầy nghẹn ngào trong tâm hồn Kiều. Cảnh chiều hoang vắng trước cửa biển, xa xôi, u ám với chiếc thuyền và cánh buồm, bông hoa trôi phương xa và cỏ cạn bồng bềnh, chân mây, mặt đất,… gió cuốn và tiếng sóng dồn dập – là những hình ảnh ẩn dụ và hoán dụ tả một cuộc đời lênh đênh, trôi dạt trên dòng đời vô định đầy sóng gió, với tâm trạng sợ hãi, cô đơn và tuyệt vọng. Ngoại cảnh hòa hợp với tâm trạng:
“Buồn nhìn chiều hoang trước cửa biển,
Thuyền xa nhấp nhô cánh buồm bay bay.
Buồn nhìn hoa nước trôi phương xa,
Mong manh nơi chân mây và mặt đất.
Buồn nhìn nội cỏ rau rồi rào,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn nhìn gió cuốn mặt biển lồi lõm,
Sóng vỗ lên rì rào quanh bàn ngồi'
Thơ văn miêu tả vẻ đẹp của hai chị em Kiều luôn được nhiều người khen ngợi. Bức họa về “hai nàng tiên” vô cùng xinh đẹp, một vẻ đẹp tươi trẻ, tuyệt mỹ:
“Mỗi người một vẻ, nhưng tâm hồn như tuyết,
Mai cốt cách, vẻ đẹp trọn vẹn.”
Thúy Kiều và Thúy Vân, từ bề ngoài như “mai”, từ tinh thần như “tuyết”; từ vẻ đẹp đến tâm hồn, đều tinh tế và trọn vẹn như “mười phân vẹn mười”. Hai hình ảnh ẩn dụ “Mỗi người một vẻ, nhưng tâm hồn như tuyết” là những diễn đạt tinh tế về giá trị tâm hồn và vẻ đẹp.
Bốn dòng thơ sau miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân. Khuôn mặt rạng ngời như vầng trăng tròn, đôi mày thanh tú như đỉnh núi, nụ cười tỏa sáng như bông hoa, lời nói dịu dàng như hạt ngọc, mái tóc mềm mại như đám mây, làn da trắng mịn như tuyết. Trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết,... là biểu tượng cho vẻ đẹp thiên nhiên so sánh với khuôn mặt, nụ cười, tiếng nói, tóc, da của phụ nữ. Sự mô tả này, mặc dù ẩn chứa sự mơ mộng, nhưng ngòi bút tài ba của Tố Như đã tạo ra những dòng thơ sáng tạo và cuốn hút:
“Thúy Vân tỏa sáng rực rỡ, khác biệt với bất kỳ ai,
Mặt trăng tròn đẹp, nụ cười rạng ngời tỏa sáng.
Bông hoa tươi tắn, hạt ngọc tỏa sáng,
Mây vương vấn trong mái tóc, làn da trắng mịn như tuyết.”
Nếu Thúy Vân được ví như một người phụ nữ, thì Kiều là một nàng tiên vô cùng tuyệt vời, quyến rũ và hoàn hảo. Nguyễn Du đã sử dụng phép ẩn dụ – nhân hóa để mô tả vẻ đẹp mơ mộng của Thúy Kiều. Đôi mắt của nàng sáng trong veo như dòng nước thu, đôi mày xinh đẹp như dáng núi vào mùa xuân... Sắc đẹp ấy làm cho hoa phải “ghen”, liễu phải “hờn”:
“Nét xuân sơn, hồn thu thủy,
Hoa vẫn thắm, liễu vẫn xanh hờn ghen.”
Những câu thơ, những hình ảnh ẩn dụ – nhân hóa đó như những đóa hoa nghệ thuật tươi thắm luôn tỏa hương vào tâm hồn con người. Đồng thời, chúng còn phản ánh tấm lòng nhân ái của nhà thơ đối với cái đẹp trong cuộc sống hàng ngày.
Nguyễn Du không chỉ tiếp thu văn hóa, truyền thống văn học Trung Hoa mà còn học hỏi từ dân ca, ca dao, từ lời nói của người nông dân trên cánh đồng để sáng tạo ra những bài thơ độc đáo.
“Hạt mưa” là biểu tượng ẩn dụ trong ca dao, dân ca thể hiện về số phận, định mệnh của phụ nữ: “Thân em như hạt mưa rơi, Hạt rơi trên mái, hạt rơi trên ruộng''. Đối diện với những biến cố của cuộc đời, Kiều suy nghĩ và hành động:
“Hạt mưa rơi tưởng số phận thênh thang,
Quyết lòng vượt lên, đến cảnh bến sông.”
“Ba xuân, tấc cỏ, hạt mưa” là những biểu tượng ẩn dụ, nói ít nhưng gợi nhiều, hàm súc và gợi cảm. Kiều là một thiếu nữ tốt bụng, hiếu thảo, quyết tâm hy sinh để giải thoát cha khỏi tù đày.
Nghệ thuật trong 'Truyện Kiều” đa dạng, phong phú và độc đáo. Những dòng trích từ Kiều đã được giáo sư Đặng Thanh Lê đánh giá là chính xác.
Tượng trưng và ước lệ là nét đặc trưng của thi pháp cổ. Nguyễn Du đã sử dụng những kỹ thuật này một cách sáng tạo, đặc biệt trong câu thơ Kiều với hình ảnh sống động như “Những lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Đặc biệt, những dòng thơ Kiều với hình ảnh tượng trưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mỗi người: “Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày” (Tố Hữu).
“Truyện Kiều” đã làm sáng tỏ nền văn học cổ Việt Nam. Tên tuổi của thi hào Nguyễn Du vẫn mãi sống trong lòng người dân với lòng kính trọng và tự hào.