TOP 5 bài Phân tích nghệ thuật miêu tả tự nhiên trong Cảnh ngày xuân RẤT HAY, đặc biệt nhất, giúp các em học sinh lớp 9 nhìn thấy sự tài năng nghệ thuật miêu tả vô song của thiên tài văn học Nguyễn Du.
Qua đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, bức tranh về thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, đầy sức sống được nhà thơ gợi lên sống động, tươi mới, tràn ngập sắc xuân. Hãy cùng Mytour khám phá thêm bài viết dưới đây để tích lũy thêm từ vựng, nâng cao khả năng học môn Văn 9:
Dàn bài về nghệ thuật miêu tả tự nhiên trong Cảnh ngày xuân
1. Giới thiệu
- Tiểu sử về Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều và đoạn trích Cảnh ngày xuân
- Tiết lộ nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong đoạn trích Cảnh ngày xuân, thể hiện tình yêu nhân văn sâu sắc của tác giả đối với thiên nhiên và con người.
II. Phần chính
- Sử dụng nghệ thuật ước lệ cổ điển, khéo léo mượn hình ảnh ước lệ từ thơ cổ, sáng tạo trong việc sử dụng thơ cổ, với bút pháp điểm xuyết và chấm phá.
1. Bốn câu thơ đầu: Miêu tả cảnh xuân
- Miêu tả tổng quan về vẻ đẹp tươi mới của mùa xuân với hình ảnh đàn én bay lượn trên bầu trời trong lành rực rỡ ánh sáng xuân (hai câu đầu)
- Tác giả biểu hiện sự tiếc nuối khi thời gian trôi qua nhanh chóng
- Bức tranh tuyệt đẹp hiện ra qua hai câu thơ:
Cỏ non xanh bát ngát đất trời
Cành lê trắng tinh khiết, một vài bông hoa
- Cảnh vật đơn giản với cỏ xanh, hoa trắng nhưng tạo ra không gian rộng lớn, tươi mới, phong phú
- Nếu hai câu thơ cổ “Phương thảo liên thiên bích/ Lê chi sổ điểm hoa” của Trung Quốc sử dụng hình ảnh cỏ thơm thì Nguyễn Du lại chọn hình ảnh cỏ xanh để nhấn mạnh vẻ đẹp sức sống của mùa xuân
- Hình ảnh hoa lê thể hiện sự tinh khiết, thanh thoát, sự tươi mới trong không gian mùa xuân
→ Hai câu thơ miêu tả vẻ đẹp tự nhiên tuyệt vời của Nguyễn Du sáng tạo và đầy cảm xúc. Từ đó phản ánh tâm hồn con người tươi mới, phấn chấn khi ngắm nhìn vẻ đẹp trong trẻo của thiên nhiên.
2. Sáu câu thơ cuối: Bức tranh thiên nhiên lôi cuốn tâm hồn con người
- Cảnh mang vẻ thanh bình, dịu dàng của mùa xuân: ánh nắng hoàng hôn, dòng suối nhỏ, cầu bắc khe ngang như nhuốm màu tâm trạng của con người
- Bầu không khí buổi chiều tà quen thuộc trong văn chương khiến con người ngập trong cảm xúc thăng trầm khó tả.
- Khung cảnh dường như chậm lại, yên bình lại, mọi sự vật đều dần dần đi vào tĩnh lặng
- Không gian thu hẹp, trở nên nhỏ bé, lộ ra nỗi buồn sâu thẳm của con người
- Những từ ngữ như thanh thanh, tà tà, nao nao không chỉ diễn đạt vẻ đẹp của cảnh vật mà còn phản ánh tâm trạng của con người.
Từ nao nao đánh thức cảm giác buồn rối bời. Hai từ thẩn thơ chứa đựng sức mạnh gợi lên, chị em Kiều cảm thấy bất an, tiếc nuối, buồn rầu khi rời đi
→ Bằng cách mô tả cảnh thiên nhiên liên kết với tình cảm, cảnh và tình yêu hoà quyện
III. Phần kết
- Với phong cách miêu tả thiên nhiên độc đáo, đoạn trích xây dựng bức tranh thiên nhiên, ngày hội mùa xuân tươi đẹp, trong trẻo
- Bức tranh làm nổi bật tình cảm nhân văn cao quý của thiên tài văn học Nguyễn Du trước vẻ đẹp của cảnh vật và con người
- Đoạn trích khẳng định tài năng miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du cũng như sự vĩ đại của kiệt tác Truyện Kiều.
Nghệ thuật mô tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - Mẫu 1
Đoạn trích 'Cảnh ngày xuân' là một tác phẩm xuất sắc, độc đáo, rất đặc biệt cho nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên của đại văn hào Nguyễn Du. Đoạn trích nằm ngay sau đoạn miêu tả về tài, về sắc của chị em Thúy Kiều. Thông qua đoạn thơ, Nguyễn Du đã vẽ lên bức tranh về thiên nhiên và lễ hội mùa xuân trong tiết Thanh minh rất tươi sáng, sống động. Nhà thơ đã thông minh kết hợp phong cách miêu tả và tạo hình với những chi tiết ước lệ mà vẫn rất chân thực, giàu tính biểu cảm và sử dụng ngôn ngữ trong sáng, tinh tế để tả khung cảnh ngày xuân.
Đầu tiên là bốn câu thơ đầu, với nghệ thuật tinh tế tả ít gợi nhiều, Nguyễn Du đã tạo ra một bức tranh về thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống:
Con én ngày xuân vờn nhau bay
Ánh nắng xuân rạng đã qua sáu mươi
Cỏ non xanh mượt đến chân trời
Cành lê trắng rải vài bông hoa.
Hai câu thơ đầu không chỉ gợi lên thời gian mà còn gợi lên không gian. Ngày xuân nhanh chóng trôi qua như con én. Cả mùa xuân có 90 ngày thì đã qua tháng giêng, tháng hai và bước vào tháng thứ ba. Ánh sáng của ngày xuân nhẹ nhàng, tươi sáng, lan tỏa khắp nơi. Trên bầu trời là những đàn én mùa xuân bay lượn. Dưới đất là một thảm cỏ xanh non vô tận. Động từ “mượt” khiến cho không gian mùa xuân như mở ra, ngày càng mở rộng và bao phủ cả không gian xuân là một màu xanh của cỏ lá. Trên mảnh cỏ xanh ấy là những bông hoa lê trắng tinh khôi. Sự đảo ngữ giúp tôn lên sự tinh khiết của hoa lê trên nền cỏ mùa xuân. Chỉ cần bốn câu thơ ngắn gọn nhưng dưới bút và phong cách miêu tả tinh tế, Nguyễn Du đã vẽ lên một bức tranh về mùa xuân tươi trẻ, trong trẻo, tinh khôi và đầy sức sống, mang hơi thở của mùa xuân Việt Nam.
Đến sáu câu thơ cuối, qua nghệ thuật 'tả cảnh ngụ tình', Nguyễn Du đã mô tả thời điểm kết thúc của ngày hội xuân đầy cảm xúc. Điều này không chỉ là sự tả chân thực mà còn phản ánh tâm trạng của nhân vật trữ tình trong thơ.
Bóng dương tàn phai về phía tây
Thơ thẩn chân bước về ra đây
Dần dần bên bờ dòng tiểu khê
Phong cảnh thanh thanh vẻ mềm mại
Nước uốn quanh nhẹ lướt chân đi
Chiếc cầu nhỏ kia cuối ghềnh xiêu
Mặc dù cảnh vẫn giữ được sự dịu dàng, nhẹ nhàng của ngày xuân nhưng ánh dương đã dần tàn phai về phía tây. Khung cảnh dần trở nên nhạt nhòa, mọi sự rộn ràng, hối hả của buổi sáng xuân đã phải nhường chỗ cho sự yên bình, tĩnh lặng. Không gian xuân thu hẹp lại theo ánh sáng của hoàng hôn phía tây, không còn mở ra rộng lớn, vô tận như trong bốn câu thơ đầu. Tất cả đều thu nhỏ lại trong bước chân của người về. Phong cảnh vẫn giữ được sự nhẹ nhàng, dòng nước tiểu khê vẫn uốn quanh nhẹ nhàng và chiếc cầu nhỏ cuối ghềnh vẫn xiêu vẹo. Cảnh thực đẹp, giàu chất thơ, phảng phất một chút buồn lưu luyến, bâng khuâng của lòng người. Đồng thời, gieo vào lòng người đọc những linh cảm về sự sắp xảy ra, như là một sự dự báo cho cuộc gặp gỡ sắp tới giữa Thúy Kiều và Kim Trọng. Tóm lại, qua phong cách miêu tả cảnh ngụ tình, cùng với việc sử dụng các từ và hình ảnh giàu biểu cảm, tác giả đã mô tả bức tranh chiều tà trong ngày hội xuân đầy cảm xúc của nhân vật. Điều này đã thể hiện rõ sự tài năng trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và tâm trạng con người của Nguyễn Du.
Trái với bốn câu thơ đầu, bức tranh về thiên nhiên mùa xuân trong buổi sáng được miêu tả là tràn đầy sức sống, rộn ràng, bao la, vô tận trong màu xanh của cỏ cây. Nhưng đến sáu câu cuối, bức tranh xuân kết thúc trong ánh nắng chiều mờ nhạt, co lại và nhuốm màu cảm xúc của con người. Sự chuyển biến này diễn ra một cách tự nhiên và hợp lý.
Tóm lại, từ phân tích trên, chúng ta có thể thấy được nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của tác giả rất độc đáo, phong phú. Đó là một bức tranh về mùa xuân sôi động, tươi mới, đầy sức sống, nhẹ nhàng.
Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - Mẫu 2
Truyện Kiều của vĩ nhân Nguyễn Du được xem như một kiệt tác của văn học dân tộc Việt Nam, không chỉ thu hút người đọc trong nước mà còn chinh phục được nhiều độc giả quốc tế. Thành công của tác phẩm này không chỉ bởi việc phản ánh sắc thái xã hội thời kỳ đó, mà còn do tài năng văn chương tinh tế của Nguyễn Du. Trong đó, nghệ thuật miêu tả thiên nhiên là một phần không thể thiếu. Trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, ta có thể thấy rõ tài tình của vị thi sĩ.
Bức tranh về mùa xuân trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” được Nguyễn Du vẽ lên sống động, tươi vui, tràn ngập sức sống:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Trong bức tranh mùa xuân này, chim én được ví như những con “thoi”, thể hiện sự trôi chảy nhanh chóng của ngày xuân, như là chiếc thoi vẽ những đường tơ mềm mại trên bức tranh thiên nhiên.
“Thiều quang” là ánh sáng đỏ hồng của buổi sáng xuân, tạo ra không khí ấm áp cho vạn vật. Trên bức tranh, cỏ non mướt mải mướt mắt trải dài đến chân trời, và hoa lê trắng tinh khôi làm cho mùa xuân trở nên hoàn mĩ, đầy sức sống.
Không chỉ không khí của ngày xuân được Nguyễn Du mô tả một cách sống động, chân thực mà ngay cả khi bầu trời ngả bóng chiều tà, khi không khí của ngày xuân dần dần trở nên yên bình, nhường chỗ cho bóng tối thì Nguyễn Du vẫn sử dụng sự tài hoa, tinh tế của mình để tạo ra một bức tranh chiều tà đẹp mắt cho người đọc.
“Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc qua”
Dù không khí của ngày xuân trở nên trầm lắng, thanh tĩnh vào buổi chiều, nhưng không mất đi sức hút và vẻ đẹp của nó. Nhà thơ Nguyễn Du đã sử dụng các từ láy như: “thanh thanh”, “nao nao”, “nho nhỏ” để tạo ra bức tranh chiều tà, không chỉ mô tả cảnh vật mà còn biểu lộ cảm xúc con người.
Khung cảnh buổi chiều mùa xuân được Nguyễn Du mô tả với vẻ đẹp trầm lặng nhưng vẫn thơ mộng và hữu tình. Ông đã lồng ghép tâm trạng, cảm xúc của con người vào bức tranh thiên nhiên, làm cho nó trở nên sống động, chân thực.
Nhờ cảm nhận tinh tế của mình và khả năng miêu tả cảnh vật xuất sắc, Nguyễn Du đã tái hiện bức tranh ngày xuân một cách chân thực và sinh động, từ náo nhiệt rộn rã cho đến sự trầm lặng, chậm rãi. Bức tranh này thể hiện tài năng và tinh thần tinh tế của ông.
Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - Mẫu 3
Trong Truyện Kiều, có bao lần Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật để mô tả thiên nhiên với đầy đủ bốn mùa, đầy cảm xúc và trữ tình.
Một lần, Nguyễn Du đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên mùa xuân với màu xanh tươi tắn của cỏ non và sắc trắng thanh nhã của hoa lê. Trên nền xuân êm đềm ấy, những trang giai nhân tuyệt sắc bắt đầu nảy nở. Giai nhân, tài tử, mùa xuân và tình yêu hòa quyện với nhau, tạo nên vẻ đẹp tuyệt vời trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”.
Khi xuân đã bước vào tháng ba - thời điểm thanh minh, cánh én rộn ràng trong ánh nắng ấm. Bức tranh đẹp về mùa xuân được tạo nên từ sự kết hợp hoàn hảo giữa thảm cỏ xanh mướt kéo dài tới chân trời và những bông hoa lê trắng tinh khôi. Từ “điểm” đã được sử dụng một cách tinh tế, phản ánh tinh thần thanh lịch của những người đang tận hưởng mùa xuân.
Màu sắc tinh khôi, trong trẻo của mùa xuân là nét đặc trưng, đầy sức sống và lôi cuốn. Bức tranh về mùa xuân đã làm say lòng người.
Tám dòng tiếp theo miêu tả không khí lễ hội trong dịp Thanh minh.
Văn hoá tảo mộ thấm sâu vào lòng người, trở thành nét đẹp tinh thần truyền thống.
Hội Đạp Thanh là nơi phản ánh cái thanh tao, gần gũi. Không gì bằng việc dạo bước trên cánh đồng quê khi cỏ non vươn mình sau cơn mưa xuân nhẹ nhàng. Mùi hương trầm thoảng từ những ngôi mộ kết hợp cùng tâm hồn du xuân tạo nên không gian thiêng liêng khó diễn tả.
Đoạn thơ chứa đựng nhiều cảm xúc, từ danh từ yến anh, chị em, tài tử, giai nhân cho đến mọi người, tất cả đều trong tâm trạng háo hức, sẵn sàng tham gia hội chợ.
Ngoài việc sử dụng động từ và danh từ, Nguyễn Du còn thêm vào các tính từ như nô nức, gần xa và hình ảnh “nô nức yến anh”, tạo ra không khí sôi động của ngày xuân và tâm trạng vui tươi của những người tham dự hội chợ.
Trên khung cảnh đó, những đám én vàng bay cùng tro giấy phôi pha tạo nên vẻ đẹp sâu lắng. Điều này thể hiện rõ vẻ đẹp văn hoá truyền thống và tính nhân văn trong lễ Thanh minh.
Sáu câu cuối mô tả cảnh chị em Kiều trở về nhà. Cảnh chốc lát chiều tàn, không còn sôi động mà như dần lặng và buồn bã.
Các từ như “tà tà, thanh thanh, nao nao” thể hiện sắc thái của cảnh vật và tâm trạng con người, tạo cho cảnh vật như có linh hồn. Phép nhân hoá độc đáo làm cho cảnh vật có cảm xúc như con người.
Dù niềm vui xuân còn vương vấn, tác giả đã đặt vào lòng người một chút buồn qua hình ảnh của “Nao nao dòng nước” và ngọn “tiểu khê” thanh thanh mát mẻ như một dự báo cho một điều không lành, một thời kỳ khó khăn...
Đoạn thơ có cấu trúc rõ ràng, ngôn ngữ sinh động; nghệ thuật nhân hoá độc đáo và sử dụng từ láy phong phú biểu cảm.
Với mười tám dòng thơ, tác giả đã tạo ra một bức tranh mùa xuân tinh tế với sự điểm nhấn tuyệt vời và chứa đựng nhiều tâm trạng con người cùng dự cảm về nỗi đau.
Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - Mẫu 4
Nguyễn Du, một vĩ nhân văn hóa được tôn vinh, với tác phẩm 'Truyện Kiều' - kiệt tác văn học Việt Nam. 'Truyện Kiều' là một tác phẩm ca ngợi nhân đạo, lên án cái ác và một bài học về nghệ thuật văn chương. Trong việc miêu tả và gợi cảm, Nguyễn Du đã đạt tới đỉnh cao. Đoạn trích 'Cảnh ngày xuân' trong phần I, 'Gặp gỡ và đính ước' của Thúy Kiều, được xem là một trong những thành công vĩ đại nhất của nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của ông.
Bốn câu thơ đầu tiên gợi lên hình ảnh mùa xuân với vẻ đẹp độc đáo: tươi tắn, rực rỡ, thơm ngát, mê hoặc.
'Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
Bằng sự kết hợp giữa bút pháp chấm phá và gợi tả, hai câu thơ đầu đã tạo ra không gian và thời gian sống động. Hình ảnh 'con én đưa thoi' không chỉ là một tả thực về cuối mùa xuân, mà còn ẩn chứa ý nghĩa sâu xa về thời gian trôi đi nhanh chóng. Thiều quang đưa lên hình ảnh mùa hồng của xuân, ánh sáng và ấm áp của mùa này, làm nổi bật vẻ đẹp to lớn của thiên nhiên. Đặc biệt, sự kết hợp màu xanh của cỏ non với bông hoa lê trắng tạo ra một bức tranh xuân tươi sáng, tràn đầy sức sống và thanh khiết.
'Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa'
Nguyễn Du sử dụng tài sáng tạo khi áp dụng câu thơ cổ từ Trung Quốc, thể hiện màu xanh của cỏ non mênh mông và sự sáng bừng của hoa lê trắng. Từ 'trắng' được đặt trước làm nổi bật sự tinh khiết, thuần khiết của bức tranh xuân. Cảnh ngày xuân là một bức tranh tuyệt vời để tôn vinh cuộc sống và cảm xúc náo nức trong chị em Thúy Kiều khi đi du xuân.
Tám câu thơ tiếp theo mô tả khung cảnh mùa xuân trong ngày thanh minh. Trong ngày này, hai hoạt động diễn ra đồng thời: lễ tảo mộ và hội đạp thanh - cả hai đều là phần của truyền thống văn hóa.
Tám câu thơ tiếp theo, tác giả gợi lên khung cảnh mùa xuân trong tiết thanh minh. Trong ngày thanh minh có hai hoạt động diễn ra cùng một lúc: lễ tảo mộ – đi viếng mộ sửa sang quét tước phần mộ của người thân, hội đạp thanh – dẫm lên cỏ non ở chốn đồng quê:
'Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh'
Cảnh trẩy hội mùa xuân diễn ra sôi động, nhộn nhịp, trên mọi nẻo đường, đám đông người trẩy hội. Khắp nơi rộn ràng tiếng cười nô nức, những người tham dự bao gồm cả quý yến anh, tài tử, giai nhân, hân hoan dập dìu bước chân cùng nhau.
'Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm'
Nguyễn Du tài tình mô tả cảnh trẩy hội mùa xuân bằng ngôn từ phong phú, đa dạng. Từ 'chị em, yến anh, tài tử, giai nhân' thể hiện sự đa dạng và đông đảo của người tham gia hội. Các từ 'sắm sửa, dập dìu' tạo ra bức tranh sôi động, hối hả của ngày hội. Sự ẩn dụ với 'yến anh', hoán dụ với 'ngựa xe, áo quần' làm cho cảnh trẩy hội trở nên sống động, rực rỡ. Điều này đặc biệt hiện rõ trong các hội lễ nổi tiếng như Chùa Hương, Lim, Yên Tử.
Thông qua việc miêu tả cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều, tác giả đã tái hiện một phần của văn hóa truyền thống: người ta chuẩn bị đồ lễ để đi tảo mộ, sắm sửa quần áo mới để tham gia hội đạp thanh, đồng thời còn tưởng nhớ người đã khuất bằng việc rước thoi vàng vó, đốt giấy tiền vàng.
“Lối mòn đồng nghiêng, xô lên,
Thoi vàng tung bay, tiền giấy bay”
Cuộc vui nào cũng đến lúc kết thúc, sáu câu thơ cuối miêu tả cảnh Thúy Kiều trở về sau cuộc du xuân, cảnh đẹp nhưng mang nỗi buồn thoáng qua tâm trạng con người.
“Bóng chiều nghiêng về phía Tây,
Chân chị em buông lơi bước ra về.
Bước dần theo dòng nước uốn quanh,
Lần xem phong cảnh thanh thanh như bình yên.
Nao nao dòng nước cong quanh,
Bên cạnh con thuyền cuối dòng bắc ngang”
Cảnh vẫn mang vẻ thanh bình của mùa xuân. Ánh nắng nhẹ nhàng, dòng nước nhỏ uốn quanh một chiếc cầu nhỏ cuối dòng, mọi thứ diễn ra một cách nhẹ nhàng. Mặt trời từ từ nghiêng về phía Tây, bước chân người thơ thẩn, tuy nhiên không khí sôi động của lễ hội dần phai nhạt, im lặng.
Cảnh mùa xuân trong sáu câu thơ cuối và bốn câu thơ đầu, bên cạnh những điểm tương đồng, còn có sự khác biệt do không gian và thời gian đã thay đổi, nhưng quan trọng nhất là cảnh được nhìn nhận thông qua tâm trạng con người. Sáu câu thơ cuối tạo nên bức tranh hoàng hôn xuân đẹp đẽ nhưng u buồn, phản ánh tâm trạng con người, như Nguyễn Du đã viết: “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”.
Tóm lại, qua đoạn trích 'Cảnh ngày xuân', Nguyễn Du đã khéo léo gợi lên trong đọc giả một bức tranh thiên nhiên sinh động, cảnh lễ hội xuân tươi đẹp và đầy sức sống, đồng thời tạo nên một đoạn thơ miêu tả cảnh thiên nhiên tinh tế nhất của ông. Ông không chỉ là một nhà thơ vĩ đại của dân tộc mà còn là một nghệ sĩ văn từ tài năng. Từ đó, chúng ta hãy biết trân trọng và yêu quý thiên nhiên, bảo vệ và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc, nhớ nguồn.
Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong 'Cảnh ngày xuân' - Mẫu 5
'Truyện Kiều' đã được coi là một tác phẩm vĩ đại trong văn học Việt Nam, đặc biệt nhờ vào ngòi bút tài tình của đại thi hào Nguyễn Du. Không chỉ được đánh giá cao về nội dung mà tác phẩm còn để lại ấn tượng mạnh mẽ về mặt nghệ thuật, đặc biệt là trong việc miêu tả thiên nhiên. Trong số các đoạn miêu tả, 'Cảnh ngày xuân' là một ví dụ xuất sắc về tài năng của tác giả trong việc mô tả thiên nhiên.
Đầu tiên, tác giả đã thể hiện bức tranh thiên nhiên thông qua hình ảnh mùa xuân tươi đẹp và tràn ngập sức sống:
'Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã vượt sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa'
Dưới nét bút của nhà thơ, việc miêu tả thiên nhiên trở nên sống động với hình ảnh, đường nét, màu sắc phối hợp tinh tế, nhẹ nhàng. Khung cảnh mùa xuân được tái hiện qua hình ảnh những cánh én vẽ đuổi trên bầu trời, gợi lên sự chuyển động không ngừng của thời gian. Ánh nắng mùa xuân được diễn đạt qua từ 'thiều quang', tươi mới, dịu nhẹ và rực rỡ của tiết trời xuân. Sắc xanh tươi của cỏ non trải dài đến cuối chân trời tạo nên một không gian bao la, rộng lớn và khoáng đạt. Một số bông hoa lê trắng xuất hiện, làm nổi bật màu sắc tinh khôi và sáng trong.
Miêu tả hình ảnh 'cỏ thơm' và màu sắc 'cỏ xanh' của Nguyễn Du gợi lên sức sống của mùa xuân và tạo ra sự hài hòa trong vẻ đẹp tươi mới và tinh khôi. Kết thúc lễ hội, ánh sáng 'thiều quang' nhường chỗ cho bóng tà dương buổi xế chiều. Khung cảnh vẫn đẹp dịu dàng của mùa xuân với hình ảnh 'bóng tả về tây', ánh nắng nhạt dần và mặt trời dần lặn xuống, cùng với các chi tiết về khe nước nhỏ và dòng nước uốn quanh, gợi lên không gian thân thuộc và tiếc nuối.
Tài nghệ của Nguyễn Du được thể hiện qua việc sử dụng từ ngữ giàu giá trị để miêu tả không gian tĩnh lặng trong tâm trạng buồn bã và tiếc nuối.
Miêu tả hình ảnh 'cỏ thơm' và màu sắc 'cỏ xanh' của Nguyễn Du gợi lên sức sống của mùa xuân và tạo ra sự hài hòa trong vẻ đẹp tươi mới và tinh khôi. Kết thúc lễ hội, ánh sáng 'thiều quang' nhường chỗ cho bóng tà dương buổi xế chiều. Khung cảnh vẫn đẹp dịu dàng của mùa xuân với hình ảnh 'bóng tả về tây', ánh nắng nhạt dần và mặt trời dần lặn xuống, cùng với các chi tiết về khe nước nhỏ và dòng nước uốn quanh, gợi lên không gian thân thuộc và tiếc nuối.
Tài nghệ của Nguyễn Du được thể hiện qua việc sử dụng từ ngữ giàu giá trị để miêu tả không gian tĩnh lặng trong tâm trạng buồn bã và tiếc nuối.
Với đoạn thơ đặc sắc, tác giả đã thành công trong việc miêu tả thiên nhiên thông qua hệ thống từ láy và bút pháp tả cảnh ngụ tình, nhấn mạnh tâm trạng của con người. Dòng nước trong bóng chiều tà lững lờ trôi xuôi gợi lên sự 'nao nao' trong tâm trạng của người đọc, cũng như của nhân vật Thúy Kiều.
Thông qua trích đoạn 'Cảnh ngày xuân', chúng ta có thể thấy tài năng miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du. Tác giả đã lựa chọn những hình ảnh thơ đặc sắc để phác họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp và buổi chiều tà lặng lẽ. Bút pháp 'tả cảnh ngụ tình' giúp thể hiện dòng tâm trạng của con người qua cảnh vật.
Tài năng của Nguyễn Du được thể hiện qua bút pháp tả cảnh ngụ tình, làm nổi bật tâm trạng của con người ẩn sau cảnh vật. Ông đã thể hiện sự thống nhất giữa 'cảnh' và 'tình' trong đoạn thơ này.