TOP 4 bài Phân tích tâm trạng của người lính sau chiến tranh trong bài thơ Ánh trăng hay, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn tâm trạng của người lính sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, trở về với thành phố.
Qua sự thay đổi trong tâm trạng của người lính, Nguyễn Duy muốn nhắc nhở con người phải luôn ghi nhớ đến những năm tháng gian khổ đã qua. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Mytour để có thêm nhiều vốn từ, ngày càng học tốt môn Văn 9:
Dàn ý tâm trạng của người lính sau chiến tranh
Dàn ý 1
A. Mở bài
- Giới thiệu tác giả: Nguyễn Duy
- Là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước
- Tác phẩm đại diện
- Giới thiệu tác phẩm: Ánh trăng
- Là lời tự nhắc nhở bản thân của nhà thơ về những năm tháng gian khổ đã trải qua trong cuộc đời người lính.
- Vầng trăng gắn bó với tác giả suốt cả một thời thơ ấu. Trăng tiếp tục theo dõi từng bước chân hành quân trong suốt cuộc chiến, cùng chia sẻ những khó khăn gian khổ và cùng vui mừng chiến thắng. Người và trăng lúc ấy gắn bó như những người bạn tri kỷ.
- Giới thiệu tổng quan về sự biến đổi tâm trạng của người lính qua bài thơ.
B. Thân bài
1. Khổ thơ
“Từ khi trở về thành phố
Quen với ánh sáng đèn điện, ánh sáng của gương
Vầng trăng dạo qua ngõ
Như một người quen lạ trên đường”
- Chiến tranh đã kết thúc, người lính rời khỏi chiến trường khốc liệt để quay về quê hương, nơi cuộc sống ngày càng trở nên hiện đại, văn minh hơn.
- Điều đó đã khiến người lính vô tình quên đi người bạn tri âm, tri kỉ của mình.
2. Khổ thơ 'Đèn điện tắt... vầng trăng tròn'
- Trước mắt người lính bây giờ là “vầng trăng tròn”, người bạn tri âm tri kỉ đã bị quên lãng bấy lâu nay.
- Trăng không rời đi dù người lính có quên. Trăng không trách cứ dù bị xem như “người lạ quen thuộc”.
3. Khổ thơ 'Trăng giật mình' - vầng trăng đã thực sự thức tỉnh con người:
- Hình ảnh vầng trăng đã mang một ý nghĩa biểu tượng: trăng là quá khứ nghĩa tình, là vẻ đẹp bình dị vĩnh hằng trong đời sống.
- Vầng trăng “tròn vạnh vừa” thể hiện một vẻ đẹp viên mãn trọn vẹn, bất chấp sự vô tình của con người.
- Trăng “im lặng phăng phắc”, không nói gì mà chỉ nhìn.
=> Trăng đã trở thành hiện thân của quá khứ chân tình, chung thủy và nghiêm khắc nhắc nhở con người tự soi rọi lại chính mình => Bài thơ chính là cuộc gặp gỡ có ý nghĩa gợi nhắc cho người đọc một thái độ sống một đạo lý cao đẹp của dân tộc Việt Nam mà không ai được lãng quên - Uống nước nhớ nguồn
C. Kết bài
- Khẳng định giá trị của ba khổ thơ cuối nói riêng và bài thơ nói chung
- Tình cảm của tôi dành cho tác phẩm
Dàn ý 2
I. Mở bài
- Ánh trăng là đề tài quen thuộc của thi ca, là cảm hứng sáng tác vô tận cho các nhà thơ.
- Nguyễn Duy - một nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ trẻ sau năm 1975 cũng góp vào mảng thơ về đề tài này với bài thơ “Ánh trăng”.
- Với Nguyễn Duy, ánh trăng không chỉ là niềm thơ mà còn được biểu đạt một hàm nghĩa mới, mang dấu ấn của tình cảm thời đại: Ánh trăng là biểu tượng cho quá khứ trong mỗi đời người.
- Đối diện trước vầng trăng, người lính đã giật mình về sự vô tình trước thiên nhiên, vô tình với những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Bài thơ “Ánh trăng” giản dị như một niềm ân hận trong tâm sự sâu kín ấy của nhà thơ.
II. Thân bài
1. Ý thức về vầng trăng hiện tại
“Sau khi trở về thành phố
Quen với ánh sáng của đèn điện, của gương
Vầng trăng qua phố
Như người lạ đi qua con đường”
- Vầng trăng mà ngày xưa tri kỷ bây giờ đã trở thành “người lạ” - một người qua đường xa lạ:
- Thay đổi trong hoàn cảnh sống - môi trường khác biệt, thời gian chia cắt, điều kiện sống thay đổi.
- Hành động “nhanh chóng mở cửa sổ” và cảm giác nhận ra “đột ngột vầng trăng tròn”, cho thấy mối quan hệ giữa người và trăng không còn là tri kỉ, tình bạn như xưa vì con người thấy trăng như một nguồn sáng thay thế cho ánh sáng điện.
- Câu thơ lạnh lùng, buồn bã, nghẹn ngào, thể hiện một sự thật đau lòng, tàn nhẫn mà thường gặp trong cuộc sống.
=> Từ sự xa lạ giữa người với trăng đó, nhà thơ muốn nhắc nhở: Đừng để những giá trị vật chất chi phối cuộc sống của chúng ta....
2. Tâm trạng của tác giả và trái tim của vầng trăng
- Trăng và con người đã gặp nhau trong một khoảnh khắc bất ngờ.
- Vầng trăng vẫn giữ nguyên tình cảm trọn vẹn, không bị nứt vỡ.
- “Vầng trăng tròn”, hình ảnh thơ đẹp, tình cảm vẹn nguyên, chung thủy như xưa.
- Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây là vầng trăng tròn (tượng trưng). Con người nhìn thấy mặt trăng cũng như nhìn thấy người bạn tri kỷ ngày nào. Cách diễn đạt đầy sáng tạo và sâu sắc.
- Ánh trăng đánh thức những ký ức tươi đẹp của quá khứ, làm sống lại tình bạn xưa cũ, đánh thức những gì mà con người đã lãng quên:
- Cảm xúc “rưng rưng” là biểu hiện của một tâm hồn đang rung động, xao xuyến, gợi nhớ khi gặp lại người bạn tri kỷ.
- Nhịp thơ hối hả trào dâng như dòng người tuôn chảy. Niềm vui của nhà thơ như đang được trải lại một kỷ niệm.
- Ánh trăng tỏa sáng vẻ cao cả và tha thiết, mà chúng ta phải biết trân trọng:
“Trăng vẫn tròn và sáng
…
đủ để khiến chúng ta bừng tỉnh”
- Vầng trăng tròn là biểu tượng cho quá khứ đẹp không phai mờ. Ánh trăng là người bạn thân thiết mà nhắc nhở nhà thơ và mỗi chúng ta: con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, tình bạn quá khứ vẫn luôn tươi đẹp, vĩnh cửu.
- “Bừng tỉnh” là cảm giác và phản xạ tâm lý thực sự của một người tự suy ngẫm, chợt nhận ra sự vô tâm, bất cần, sự thiếu nhạy cảm trong cuộc sống hàng ngày của mình. Cái “bừng tỉnh” của sự hối hận, tự trách bản thân, tự nhận ra cần phải thay đổi trong cách sống. Câu thơ như lời nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, và không bao giờ coi thường vẻ đẹp tự nhiên.
=> Câu thơ là lời nhắc nhở chúng ta, những người sống trong thời bình, tận hưởng những tiện nghi hiện đại, không nên quên công lao của biết bao người đã hy sinh trong cuộc đấu tranh cách mạng.
III. Kết luận
- Bài thơ “Ánh trăng” là một lần “rút ruột” của Nguyễn Duy về sự vô tình trước thiên nhiên, vô tình với những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua.
- Nó khơi gợi trong tâm trí chúng ta nhiều suy tư sâu sắc về cách sống, cách làm người, và ý nghĩa của tình bạn trong cuộc sống.
- Ánh trăng thực sự là một gương phản chiếu, giúp chúng ta nhìn lại bản thân, tìm lại cái đẹp trong lòng đã lâu ngủ quên.
Tâm trạng của người lính sau chiến tranh - Mẫu 1
Cuộc kháng chiến đã qua, những người lính đã trở về với cuộc sống bình thường. Dù có bận rộn đến đâu, thì trong đời hàng ngày cũng có những lúc những kí ức về chiến tranh trỗi dậy. Nguyễn Duy thông qua bài thơ “Ánh trăng” gửi đi thông điệp rõ ràng: Đừng sống mà quên lãng, hãy nhớ mãi đến quá khứ:
“Khi còn nhỏ ở với làng quê
với con sông, những bãi biển
thời chiến tranh ở rừng núi
vầng trăng là người bạn trung thành”
Những hình ảnh về “làng quê, con sông, bãi biển, rừng núi” trong khổ thơ đầu tiên là nơi đã nuôi dưỡng, che chở cho tuổi thơ và năm tháng chiến tranh. Đó là một quãng đường dài sống trong tình yêu thương, gắn bó với thiên nhiên, với quê hương. Vầng trăng trở thành tri kỷ. Trăng như mái nhà, như người bạn thân thiết của tâm hồn. Ở đó, tâm hồn con người cũng đơn giản, thuần khiết như chính thiên nhiên. “Trăng và con người” đã tạo nên một mối giao tiếp, một tình bạn chân thành mà chắc chắn sẽ không bao giờ quên:
“Khi trở về thành phố
quen với ánh sáng điện, cửa kính
vầng trăng qua ngõ như người xa lạ”
Khi chiến tranh kết thúc, những người lính trở về được cuốn hút bởi cuộc sống đô thị, với ánh sáng điện, ánh sáng của cửa kính, những ánh sáng nhân tạo đã làm họ quên đi ánh sáng tự nhiên hiền dịu của trăng. Cuộc sống hiện đại với nhiều tiện ích đã làm cho con người trở nên thờ ơ, vô tình với những ngày gian khổ, cùng đồng đội, đồng chí chung một trận trường mà trăng là biểu tượng:
“Vầng trăng qua ngõ như người xa lạ”
Từ hình ảnh vầng trăng “tri kỷ”, vầng trăng tình nghĩa bỗng trở thành người xa lạ đi qua ngõ, Nguyễn Duy đã diễn đạt được sự thay đổi trong tâm trạng, sự lãng quên, dửng dưng đến phũ phàng của con người. So sánh rất sâu sắc: “như người xa lạ đi qua đường”.
Cuộc đời giống như dòng sông có những đoạn êm đềm, lặng lẽ, cũng có những đoạn đầy sóng gió. Ghi lại một tình huống của cuộc sống thành phố, của những người từ rừng về thành phố, Nguyễn Duy đưa con người vào một tình huống:
“Đèn điện tắt thình lình
bóng đêm buồn bức hiện hình
mở cửa sổ vội vã
vầng trăng tròn đột ngột”
Khi ánh sáng nhân tạo bất ngờ tắt, bóng tối bao trùm, vầng trăng bất ngờ ló dạng khiến con người ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của ánh trăng thân thuộc từ tuổi thơ đến những ký ức trong cuộc chiến đầy gian khổ. Cuộc sống hiện đại đã thay đổi lòng người… Trước sự hiện diện bất ngờ đó, trăng không nói, không trách, nhưng khiến người lính cảm thấy xúc động. Ánh trăng làm cho người ta nhận ra những đặc điểm của bản thân:
“Vầng trăng tròn vẹn vẹn
kể chi về người lãng quên
ánh trăng yên bình
đủ để làm ta giật mình”
Ánh trăng vẫn như thế, giản dị, thủy chung. Trăng luôn tròn đầy, tĩnh lặng, không thay đổi, bất chấp thời gian trôi qua, bất chấp việc một ai đó từng quay lưng, dù trong quá khứ trăng là tri kỷ. Nhưng trăng cũng khơi gợi cảm xúc, đánh thức lòng tự trọng trong con người. Cái giật mình được diễn tả một cách im lặng thể hiện sự bình tĩnh đáng quý. Qua bài thơ này, Nguyễn Duy đã khám phá ra vẻ đẹp vô tận của trăng. Cuộc hành trình tìm kiếm những điều tốt đẹp ẩn sâu trong tâm hồn con người không bao giờ dừng lại, và việc hoàn thiện bản thân cũng không bao giờ ngừng.
Cuộc chiến tranh vẫn đang diễn ra, yên lặng nhưng khốc liệt, đòi hỏi sự dũng cảm của con người. Những người lính năm xưa đã sử dụng quá khứ của họ như một gương soi tự bản thân, họ đang chiến đấu để loại bỏ sự vô tâm và vô nghĩa, hướng tới cái tốt, cái đẹp.
“Ánh trăng” là một bài thơ không quên về quá trình hướng thiện, quá trình tự hoàn thiện của mỗi con người trong cuộc sống hôm nay.
Tâm trạng của người lính sau chiến tranh - Mẫu 2
Nguyễn Duy, một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thế hệ sinh ra và lớn lên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Bài thơ “Ánh trăng” là một trong những tác phẩm nổi bật của ông, thể hiện tâm trạng của người lính sau khi kết thúc chiến tranh và trở về cuộc sống bình thường ở thành phố.
Trong quá khứ, vầng trăng luôn là người bạn thân thiết, gắn bó với người lính qua những năm tháng tuổi thơ sống gần gũi với thiên nhiên. Trên chiến trường, vầng trăng đã cùng người lính chia sẻ những khó khăn, nguy hiểm. Nhưng khi trở về thành phố, người lính dần quên đi vầng trăng tri kỷ ấy:
“Từ khi trở về thành phố
quen với ánh sáng điện, cửa gương
vầng trăng qua ngõ
như người xa lạ qua phố”
Khi cuộc chiến tranh kết thúc, người lính rời nơi chiến trường để trở về thành phố. Cuộc sống hiện đại của thành phố với ánh điện, cửa gương - ánh sáng của văn minh đã khiến con người dần quên đi những năm tháng chiến tranh đau thương. Và sự thay đổi hoàn cảnh sống đã dẫn đến sự thay đổi về tình cảm. Những ánh sáng của văn minh làm khuất đi ánh sáng thân thuộc của trăng. Ngay cả khi vầng trăng vô tình đi qua ngõ, lại giống như người xa lạ qua đường. Nhà thơ đã dùng so sánh: “vầng trăng” - “người dưng”. Hai từ “người dưng” chỉ những người không quen biết, không có quan hệ thân thiết và hoàn toàn xa lạ. Thật đáng buồn khi “ánh trăng” - một người bạn tri kỷ từng gắn bó giờ lại trở nên xa lạ. Chỉ khi gặp sự bất ngờ, nhân vật trữ tình mới nhận ra:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Tình huống bất ngờ xảy ra khi thành phố mất điện, khiến cho “phòng buyn-đinh” trở nên tối om. Trong bóng tối, nhân vật trữ tình vội vàng “bật tung cửa sổ” - một hành động mạnh mẽ, quyết liệt để tìm kiếm ánh sáng. Và rồi ánh trăng hiện ra. Không phải hôm nay ánh trăng mới xuất hiện, trăng vẫn ở đó, chỉ có con người là không để ý. Từ “đột ngột” gợi lên cảm giác bất ngờ, không báo trước khiến con người cảm thấy bàng hoàng và xúc động. Bấy lâu nay, ánh trăng vẫn ở đó, tròn đầy và sáng rõ. Trước đó, sự gặp gỡ chỉ là tình cờ, nhưng ở đây lại là sự đối mặt trực tiếp:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Khi đối mặt với ánh trăng gần, những ký ức xưa cũ lại quay về. Câu thơ “Có cái gì rưng rưng” diễn tả sự xúc động nghẹn ngào của nhân vật trữ tình khi nhớ về ký ức tuổi thơ, nhớ về những ngày tháng chiến đấu gian khổ bên vầng trăng sáng rọi. Khổ thơ cuối đọc lên như lời tự trách bản thân:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Nếu ánh trăng vẫn cứ tròn tròn như vậy, kể cả khi người vô tình không để ý, thì đủ làm ta giật mình. Mặc dù ánh trăng im lặng, phăng phắc, nhưng vẫn đủ để làm cho ta tỉnh táo, nhận ra sự vô tình của mình. Cái “giật mình” đó là một phản xạ tâm lý tự nhận ra sự thay đổi cần thiết trong bản thân, để không bao giờ phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, mà thay vào đó, biết trân trọng và gìn giữ những giá trị tốt đẹp của cuộc sống.
Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy không chỉ mô tả tâm trạng của người lính sau cuộc chiến tranh mà còn là một bài học quý giá về truyền thống “uống nước nhớ nguồn” - một truyền thống sâu sắc của dân tộc Việt Nam.
Tâm trạng của người lính sau chiến tranh - Mẫu 3
Bài thơ “Ánh trăng” được sáng tác sau năm 1978 bởi Nguyễn Duy. Qua bài thơ này, ông đã thể hiện được tâm trạng của người lính sau cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước.
“Ánh trăng” - một biểu tượng to lớn, điểm nhấn quan trọng của bài thơ, mang đầy ý nghĩa sâu sắc. Trong quá khứ, ánh trăng gắn bó với người lính suốt những năm tháng tuổi thơ hoặc tham gia vào cuộc chiến tranh:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Người lính từng nghĩ rằng sẽ không bao giờ quên được vầng trăng tình nghĩa ấy. Nhưng khi cuộc chiến tranh kết thúc, trở về với cuộc sống bình yên, hoàn cảnh thay đổi đã khiến vầng trăng dần bị lãng quên:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Trong hiện tại, “Ánh trăng” là khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc. Người lính từ biệt nơi núi rừng đầy gian khổ để trở về với thành phố hiện đại và yên bình. Dần quen với ánh sáng của văn minh là “ánh điện”, “cửa gương” - ánh sáng rực rỡ của nơi thủ đô hiện đại. Những ánh sáng này đã làm che khuất ánh sáng của vầng trăng. Và người lính dần quên đi cái vầng trăng từng bầu bạn suốt những năm tháng chiến tranh. Ánh trăng lúc này đã trở thành một “người dưng”. Hai từ “người dưng” để chỉ những người hoàn toàn xa lạ. Hình ảnh so sánh “vầng trăng đi qua ngõ” giống như “người dưng qua đường” đã thể hiện một sự thật đau lòng, đó là sự lãng quên của con người.
Chỉ khi tình huống bất ngờ xảy ra, thành phố mất điện, mọi không gian chìm vào bóng tối:
'Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn'
Nhân vật trữ tình ngay lập tức “bật tung cửa sổ”, một hành động mạnh mẽ, quyết liệt để tìm kiếm ánh sáng. Thì bất ngờ nhìn thấy hiện ra trước mắt là “đột ngột vầng trăng tròn”. Từ “đột ngột” diễn tả một sự việc xảy ra không báo trước. Thì ra bấy lâu nay, ánh trăng vẫn còn đó, vẫn hiện hữu trong cuộc sống của con người. Ở đây, nhân vật trữ tình cảm thấy thật ngạc nhiên trước sự xuất hiện của vầng trăng - một người bạn quen thuộc. Vầng trăng xuất hiện khiến những kỷ niệm quá khứ bất ngờ hiện ra trước mắt người lính.
'Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng'
Bây giờ, khi đối mặt trực tiếp với vầng trăng ấy, người lính cảm thấy rất xúc động. Để rồi bao nhiêu kỷ niệm trong quá khứ lại ùa về khiến anh cảm thấy “có gì đó rưng rưng” - thể hiện sự xúc động, nghẹn ngào. Đó là những năm tháng tuổi thơ hòa mình với thiên nhiên có vầng trăng bầu bạn, những năm tháng sống ở nơi rừng núi, chiến đấu có ánh trăng sẻ chia…
“Trăng vẫn tròn vành vạnh
kể lên nỗi nhớ da diết
ánh trăng im lặng dõi theo
đủ để ta tỉnh giấc”
Ánh trăng ấy vẫn giữ nguyên vẻ tròn đầy, không thay đổi. Giống như tình bạn thân thiết của người lính, luôn trung thành, không đổi thay. Vầng trăng không trách móc con người đã quên đi tình bạn lâu năm. Chỉ im lặng theo dõi mỗi bước đi của con người với ánh nhìn bao dung. Từ “im lặng” tạo ra không gian yên bình, khiến người lính có cơ hội suy ngẫm về lòng mình. Sự im lặng ấy làm cho chúng ta tỉnh giấc, nhận ra những lỗi lầm đã qua, để rồi hối hận.
Như vậy, sự thay đổi tâm trạng của người lính mà Nguyễn Duy đã mô tả nhằm nhắc nhở con người không quên đi những gian nan đã trải qua.
Cảm xúc của người lính
Trong văn học, trăng thường được sử dụng như một nguồn cảm hứng sáng tạo. Chúng ta có thể thấy ánh trăng lãng mạn và đầy cảm xúc trong bài thơ 'Nguyên tiêu' của Hồ Chí Minh, hoặc nỗi nhớ thương trong 'Tình dạ tứ' của Lý Bạch. Trong tác phẩm của Nguyễn Duy, ánh trăng là biểu tượng của sự thay đổi tâm trạng của người lính.
Bài thơ “Ánh trăng” là một lời tự nhắc nhở của nhà thơ về những năm tháng gian khổ đã qua trong cuộc đời của người lính. Vầng trăng đã gắn bó với tác giả suốt quãng đời thơ ấu. Trăng tiếp tục theo dõi từng bước chân hành quân trong suốt cuộc chiến, cùng chia sẻ những khó khăn, gian khổ và niềm vui chiến thắng. Người và trăng lúc ấy gắn bó với nhau như những người bạn tri âm tri kỷ.
Ngỡ như không bao giờ quên được “vầng trăng tình nghĩa” nhưng sự thay đổi trong lòng người cuốn trôi tất cả những kỷ niệm, hình ảnh về vầng trăng:
“Từ khi trở về thành phố
Quen với ánh sáng điện, gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người xa lạ qua phố”
Chiến tranh kết thúc, những người lính rời khỏi chiến trường đầy gian khổ để trở về quê hương. Họ tận hưởng cuộc sống ngày càng hiện đại, văn minh hơn. Người lính ngày xưa giờ đây được sống trong “ánh điện, cửa gương” và vầng trăng dần dần mờ nhạt trong ký ức của họ. Vầng trăng giờ đây không còn là “vầng trăng tri kỷ” hay “vầng trăng tình nghĩa” nữa mà trở thành một “người xa lạ”, một người không có bất kỳ mối quan hệ nào với người lính. Sự nhân hóa “người xa lạ qua phố” đã gây xúc động mạnh mẽ trong lòng người đọc. Nó làm nổi bật sự thay đổi trong tâm hồn con người. Sự ồn ào của phố phường, sự bận rộn mưu sinh cùng với sự vô tâm của người lính đã làm mờ đi lý trí của họ và làm phai nhạt vầng trăng trong ký ức. Điều này cũng là một thực tế: khi con người được tận hưởng sự sung túc từ vật chất thì họ bắt đầu lãng quên những kỷ niệm gắn bó với họ trong lúc khó khăn.
Cuộc đời giống như dòng sông có nhiều thác ghềnh, uốn khúc và đôi khi xảy ra những chuyện không thể lường trước:
“Đèn điện tắt bất ngờ
Phòng tối om hết
Vội mở cửa sổ rộn ràng
Đột ngột vầng trăng tròn sáng”
Khi đèn điện tắt, cuộc sống hiện đại và xa hoa của thành phố bỗng dưng dừng lại và xung quanh con người giờ đây chỉ là một màn đêm. Như một bản năng, con người không bao giờ muốn ở trong bóng tối, họ tìm mọi cách để có ánh sáng thế là “vội mở cửa sổ”. Trước mắt người lính bây giờ là “vầng trăng tròn”, người bạn tri âm tri kỉ đã bị lãng quên từ lâu. Vầng trăng vẫn cứ “tròn”, vẫn lành lặn nguyên vẹn như hồi nào. Trăng không bỏ đi dù người lính có lãng quên trăng. Trăng không trách móc dù bị coi là “người xa lạ”.
Tấm lòng vị tha, bao dung của ánh trăng đã đánh thức những suy tư bâng khuâng trong nhà thơ:
“Ngẩng mặt lên nhìn mặt trăng
Có điều gì xúc động
Như đồng, như biển
Như sông, như rừng”
Mặt người phải đối diện với mặt trăng hay chính tác giả đang phải đối diện với người bạn tri kỉ của mình? Vầng trăng im lặng, không nói, không trách móc, nhưng nhà thơ vẫn cảm thấy “có điều gì rưng rưng”. Cảm xúc bây giờ trào dâng như dòng nước mắt. Cấu trúc liệt kê và từ ngữ “như là” làm nổi bật những kí ức tuôn trào trong lòng nhà thơ. “Đồng, biển, sông, rừng”, những cảnh vật quen thuộc của ngày xưa ùa về. Chúng như một cuộn phim chiếu lại những kỷ niệm mà đã bị lãng quên. Những giọt nước mắt giờ đây giúp tâm hồn nhà thơ trở nên thanh thản, trong sáng hơn, giúp ông nhận ra lỗi lầm của mình.
Ở cuối hành trình, vầng trăng đã thực sự đánh thức tâm hồn con người:
'Trăng vẫn tròn vẹn và sáng chói
Kể cho ai đây, người vô tình?
Ánh trăng im lặng đầy mê hoặc
Đủ để làm ta bật dậy tỉnh giấc'
Từ đây, hình ảnh của vầng trăng đã mang một ý nghĩa biểu tượng: trăng là quá khứ của tình nghĩa, là vẻ đẹp bình dị vĩnh cửu trong cuộc sống. Vầng trăng “tròn vẹn và sáng chói” thể hiện một vẻ đẹp toàn diện, không chấp nhận sự vô tình của con người. Trăng “im lặng đầy mê hoặc”, chỉ nhìn mà không nói. Trăng đã trở thành biểu tượng của quá khứ chân thành, trung thành và nhắc nhở con người phải tự soi rọi lại chính mình. Con người có thể quên, từ chối quá khứ nhưng quá khứ vẫn mãi vẹn nguyên.
Thể thơ năm chữ cùng với nhịp điệu trôi chảy, tự nhiên và nhẹ nhàng theo cách kể đã thể hiện được tâm trạng suy tư của tác giả. Giọng điệu tự nhiên của nhà thơ cùng kết cấu độc đáo của bài thơ tạo nên tính chân thực, sâu sắc, để lại ấn tượng sâu sắc cho độc giả. Kết hợp với phép nhân hóa và so sánh, vầng trăng hiện ra như một con người có tri giác, một người bạn tri âm tri kỉ không bao giờ bỏ rơi người lính.
Bài thơ “Ánh trăng” không chỉ là lời tự nhắc nhở bản thân của tác giả mà còn là thông điệp mà nhà thơ muốn truyền đạt đến mọi người. Bài thơ này cũng củng cố ở người đọc lòng biết ơn và tôn trọng quá khứ, tinh thần trung thành và lòng biết ơn.