Thể hiện vai người lính kể lại Hoàng Lê nhất thống chí bằng 5 ví dụ nổi bật nhất, giúp các em học sinh lớp 9 nhanh chóng nhập vai người lính kể lại chiến công vĩ đại của anh hùng áo vải trước quân Thanh.

Với 5 bài văn thể hiện vai người lính trong quân đội của Vua Quang Trung kể lại chiến công vĩ đại trước quân Thanh của anh hùng áo vải, các em sẽ hiểu được cách thể hiện và kể chuyện sáng tạo một tác phẩm đã học bằng ngôi thứ nhất. Hãy cùng theo dõi bài viết dưới đây của Mytour:
Đề bài: Dựa vào hồi thứ 14 của Hoàng Lê nhất Thống Chí, hãy thể hiện vai một người lính trong đội quân của vua Quang Trung kể lại chiến công vĩ đại trước quân Thanh của anh hùng áo vải.
Thể hiện vai một binh sĩ kể về sự hiệp sĩ của Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 1
Tôi là một người nông dân sinh sống ở huyện La Sơn, Nghệ An. Đáp lại lời kêu gọi chiêu mộ của vua Quang Trung, tôi đã tham gia vào đội quân Tây Sơn. Trước cảnh giặc Thanh xâm lược và áp bức dân ta, tôi quyết định tham gia đội quân của vua Quang Trung để chống lại giặc Thanh, bảo vệ chủ quyền của đất nước. Cùng với đồng đội, tôi đã tuyên thệ chiến đấu hết mình, không tiếc máu và xương.
Sau khi tuyển lính xong, vua Quang Trung tổ chức duyệt binh. Tôi, là một binh lính mới đến từ Nghệ An, được sắp vào doanh trung quân, trong khi các đơn vị khác được chia thành 4 doanh tiền, hậu, tả, hữu. Lời dụ binh của vua Quang Trung đã thêm động viên và quyết tâm cho tôi. Vua nói:
- Quân Thanh không học từ lịch sử của đất nước Tống, Nguyên trong quá khứ, lại táo bạo muốn xâm lược nước Nam ta. Các người phải cùng tôi đánh đuổi chúng, không ai được phép lưỡng lự, nếu phát hiện sẽ bị trừng trị ngay lập tức, không khoan nhượng!
Tôi và toàn bộ quân lính đều tuân theo lệnh, chúng tôi tiến quân ra Bắc. Khi đến núi Tam Điệp, hai tướng sĩ Ngô Văn Sở và Nguyễn Văn Tuyết đã nhận tội về việc để giặc Thanh xâm nhập Thăng Long. Vua Quang Trung đã tỏ ra rất công bằng và nghiêm khắc trong việc xử phạt tội phạm, làm cho tất cả mọi người đều phải ngưỡng mộ tài dụng binh trí của Người. Vào ngày 30 tháng chạp năm 1788, vua đã tổ chức một bữa tiệc để chia tay quân đội, và vào đêm đó chúng tôi bắt đầu hành trình. Vua nói:
- Dù hẹn mùng 7 Tết sẽ ăn mừng tại Thăng Long
Đoàn quân tiến tới sông Gián, đánh tan binh lính địch và đuổi theo đoàn do thám của quân Thanh cho đến Phú Xuyên mà không bỏ sót ai. Vào nửa đêm ngày mồng 3, chúng tôi đến làng Hà Hồi và chia nhau bao vây làng. Khi đó, quân lính trong đồn đều kêu cầu đầu hàng. Sau khi thu thập được lương thực, chúng tôi tuân theo lệnh của vua tạo ra những bức vách lớn bằng rơm và nước. Ngày mồng 5, khi chúng tôi đến đồn Ngọc Hồi, quân Thanh đã bị tấn công bất ngờ. Mặc dù quân Thanh đã phun ra đạn nhưng không gây ra tổn thất gì do bị gió nam phù hợp. Chúng tôi tiếp tục tiến lên, sử dụng ván rơm che chắn và tiến hành tấn công. Quân Thanh bị đánh tan và hoảng loạn chạy trốn, đẩy nhau vào sông Nhị Hà, làm cho sông bị tắc nghẽn và không thể chảy.
Chúng tôi đã chiến đấu và giành chiến thắng, nhờ sự lãnh đạo thông minh, tài trí và chiến lược sắc bén của Vua Quang Trung. Trận đánh này là niềm tự hào của chúng tôi, là niềm tự hào của cả dân tộc.
Thể hiện vai một binh lính kể về trận đánh quyết định đồn Ngọc Hồi - Mẫu 2
Là một người lính thuộc quân đội Tây Sơn, tôi đã tham gia vào một trận đánh quyết định tại đồn Ngọc Hồi, một trận đánh đã đi vào lịch sử quốc gia. Hôm nay, tôi sẽ chia sẻ với các bạn về trận đánh này để các bạn hiểu thêm về một trong những trận đánh lừng lẫy trong lịch sử dân tộc.
Sau khi hình thành đội ngũ binh sĩ và lên kế hoạch tác chiến, vua Quang Trung tổ chức duyệt binh và khích lệ tướng sỹ, tuyên bố quyết tâm đánh giặc cứu nước trước tất cả các quân. Đại quân lập tức lên đường, với sự nhanh chóng như chuẩn bị sẵn sàng cho trận chiến. Tôi được phân vào đội tiền phương và đảm nhiệm vai trò đội trưởng, nhận lệnh hành quân và chuẩn bị mọi thứ một cách cẩn thận.
Để đảm bảo hành quân nhanh chóng mà vẫn bảo tồn được sức lực, sẵn sàng cho mọi trận đánh, vua Quang Trung đã chia quân thành nhiều nhóm nhỏ. Mỗi nhóm gồm từ 5 đến 7 người. Binh lính Tây Sơn tự chuẩn bị vũ khí, lương thực và các vật dụng cần thiết, nhưng phải đảm bảo mọi thứ nhẹ gọn. Hành trình từ Nam ra Bắc dài và nguy hiểm, vì vậy việc bảo tồn thời gian và không gian là rất quan trọng. Trước đó, vua đã kêu gọi nhân dân cung cấp lương thực và các vật dụng cần thiết.
Vua Quang Trung thật sự là người tài trí, suy luận và thấu hiểu sâu sắc hơn bất kỳ ai. Trong mọi trận đánh trước đây, việc chuẩn bị chưa bao giờ được thực hiện một cách nhanh chóng và chắc chắn như thế này. Khi chúng tôi lên đường, mọi thứ đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, từ trang bị quân trang, vũ khí cho đến lương thực. Và những người lính Tây Sơn tự đem theo lương thực như bánh tráng, bánh chưng, thịt muối, cá khô...
Ngoài ra, những thực phẩm này có thể bảo quản được lâu mà không bị hỏng, vẫn giữ được hương vị tốt. Người lính Tây Sơn có thể hành quân và ăn uống một cách thuận tiện, không cần phải dừng lại để chuẩn bị thức ăn. Trên hành trình, việc ăn uống rất tiện lợi và nhanh chóng. Hơn nữa, mọi người ở khắp nơi đều hỗ trợ chúng tôi. Ở mỗi nơi chúng tôi đến, chúng tôi đều được chào đón và cung cấp lương thực. Tuy nhiên, để thực hiện lệnh của vua và an ủi lòng dân, chúng tôi chỉ lấy những thứ cần thiết và trả lại những gì không sử dụng. Do đó, dù hành quân suốt ngày đêm nhưng sức khỏe vẫn được duy trì tốt và tinh thần chiến đấu vẫn luôn cao cả.
Khi đến Nghệ An, vua Quang Trung không dừng lại nghỉ ngơi mà lệnh cho đại quân tuyển thêm binh lính trong vòng 10 ngày. Vua cũng mời Nguyễn Thiếp - một cư sĩ uyên bác - tư vấn. Nguyễn Thiếp đánh giá cao tài năng và lòng trung hiếu của vua, và ngay lập tức đồng ý giúp đỡ. Sau khi phân tích tình hình, Nguyễn Thiếp khẳng định rằng cuộc chiến lần này sẽ thắng lợi chắc chắn chỉ trong vòng mười ngày.
Nghe tin vui, nhà vua lập tức tăng cường quân lực, nâng cao tinh thần chiến đấu. Một số quân lính được chiêu mộ mà không kể hoàn cảnh. Trong thời gian ngắn, quân số của chúng ta đã tăng lên hơn một vạn người, bao gồm 10 vạn quân và hơn 100 con voi. Sau đó, nhà vua tổ chức một cuộc duyệt binh lớn tại trại quân, sau đó tiến thẳng ra Bắc.
Khi tiến quân đến sông Gián, chúng tôi đã bắt được một đoàn quân do thám của kẻ địch. Quân của tôi làm nhiệm vụ tiên phong và bắt sống hết mọi người. Vì vậy, việc hành quân được tiến hành một cách bí mật. Khi chúng tôi tiến gần đến thành địa của quân Thanh tại Hà Hồi, cả hai đồn trú ở Ngọc Hồi và Thanh Trì đều không hề biết gì cả.
Trong trận đánh đầu tiên, nhà vua tiến quân tấn công thành Hà Hồi. Đây là nơi trấn thủ quan trọng của quân Thanh, nhằm cản trở quân ta tiến vào từ phía Nam. Để triệt tiêu thành phần quân địch này, hoàng đế Quang Trung ra lệnh sử dụng chiêu thuật giả binh. Mục tiêu là làm kinh hoàng tinh thần của địch trước khi tiến quân tấn công thật sự.
Chúng tôi lặng lẽ bao vây ngôi làng và rồi phát ra âm thanh vang vọng của quân đội. Tiếng vang của binh lính luân phiên nhau vang lên, gây ra sự kinh hoảng trong trại quân địch. Người ta có cảm giác như hàng vạn người đã bao vây từ bốn phía. Sau đó, chúng tôi đốt lửa sáng rực trời. Một nhóm khác mang theo nồi, trống và các vật dụng để tạo ra âm thanh inh ỏi. Trong trại quân, mọi người rất sợ hãi khi nhận ra tình hình. Họ không biết sự thật là gì, nên đã đầu hàng và xin được sống. Chúng tôi thu thập lương thực và vũ khí của địch. Quang Trung thật sự đã tính toán rất chín chắn. Chúng tôi chiếm thành công mà không mất một mũi tên nào.
Sau chiến thắng lớn, quân đội Tây Sơn tiến vào tấn công Ngọc Hồi. Ngọc Hồi là một điểm trọng yếu, và quân địch sẽ phản kích với mọi cách để bảo vệ thành phố. Sau khi suy nghĩ kỹ lưỡng, vua Quang Trung ra lệnh làm sáu chục tấm ván và ghép ba tấm lại với nhau để tạo ra các bức tường nhỏ. Sau đó, bên ngoài được phủ kín bởi rơm dập nước. Tất cả được chia thành hai mươi bức lớn. Quân lính cơ động được chọn để khiêng mỗi bức, và mỗi nhóm mười người cầm theo vũ khí để hình thành một chiến đội 'nhất'.
Khi tấn công thành, kẻ địch chắc chắn sẽ sử dụng cung để bắn vào quân ta. Các tấm ván lớn được sử dụng để bảo vệ đội quân của chúng ta khỏi các tên lửa của địch. Lớp rơm dày được ướt để dập tắt tên lửa của đối phương, làm cho địch không thể xác định được vị trí của chúng ta. Đây thực sự là một kế hoạch tinh tế, chỉ có những nhà chiến lược thiên tài mới có thể nghĩ ra.
Vào buổi sáng mùng 5, chúng tôi tiến gần đến đồn Ngọc Hồi. Để nâng cao tinh thần và quyết tâm của quân lính, vua Quang Trung ra lệnh đốt sạch lương thực. Sau đó, Ngài tự quấn một chiếc khăn vàng vào cổ để biểu hiện ý định chiến đấu và chiến thắng, chỉ muốn tiến lên mà không lùi lại. Với vẻ uy nghi mạnh mẽ, Ngài cưỡi trên lưng voi, đội quân lớn lao tiến tới, lợi hại như một vị thần trong truyền thuyết.
Quang Trung thật sự đã tính toán như một thiên tài. Khi chúng tôi đến vây thành, quân Thanh đã nổ súng từ bên trong thành một cách mạnh mẽ. Do có gió bắc, chúng đã dùng ống phun khói lửa, làm cho khói bao phủ trời. Không thấy gì rõ ràng, quân Nam bị làm rối trí. Nhưng bất ngờ, trong chốc lát, gió bắt đầu thổi từ hướng nam. Khói bắt đầu quay lại, làm hại cho quân Thanh.
Vua Quang Trung ngay lập tức gửi đội người mang ván lớn để che chắn và tiến lên trước. Khi gươm giáo của hai bên va chạm, họ thả ván xuống đất, và mọi người cầm dao ngắn ra chiến đấu. Các binh lính theo sau cũng cùng hùng hồn lao vào chiến đấu. Vua cũng tự mình dẫn đầu, không chút do dự, và cùng quân đội tiêu diệt kẻ thù một cách dũng cảm. Sức mạnh và lòng dũng cảm của họ đã giúp tôi thoát khỏi nguy hiểm khi tiến vào doanh trại. Tôi nhìn thấy ánh mắt đầy đam mê và tình yêu thương từ vị vua, làm tôi rất cảm kích.
Quân Thanh không thể chống cự nổi, họ bắt đầu tán loạn và bỏ chạy. Họ chạy lên nhau và chết. Thái thú Điền Châu là Sầm Nghi Đống đã tự sát bằng cách treo cổ. Quân Tây Sơn đã sử dụng sức mạnh của mình để chiến đấu một cách dũng cảm. Quân Thanh bị tiêu diệt, máu chảy thành dòng, là một thảm kịch lớn.
Sau khi trận đánh kết thúc, khi khói lửa dần tan đi, quân Thanh số chết, số bị thương, số hoảng loạn đổ nhau chạy về phía Bắc. Lúc này, Quang Trung mặt sạm màu khói, áo bào rách nát và đen bởi thuốc súng. Nhưng vẻ uy dũng phi thường của Ngài khiến đại quân hết sức phấn khích.
Giữa buổi trưa đó, vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long và bước vào thành. Tôn Sĩ Nghị vì say sưa uống rượu nên khi nghe tin quân lính đến gần thì hoảng sợ mất mật. Tinh thần rối loạn, không còn ý chí chiến đấu nữa. Ngựa chưa kịp đóng yên, người chưa kịp mặc giáp, Tôn Sĩ Nghị cùng lính kỵ mã của mình nhanh chóng vượt qua cầu phao và chạy về phía Bắc.
Những quân Thanh trong các doanh nghe tin, đều hoảng sợ và bỏ chạy. Họ tranh nhau vượt qua cầu sang sông Nhị Hà, đẩy nhau rơi xuống và chết. Không lâu sau, cầu bị đứt. Quân lính đều rơi xuống nước, số chết vô số. Sự cố này khiến cho sông Nhị Hà bị tắc nghẽn không thể chảy được.
Bọn Lê Chiêu Thống cũng nhanh chóng tìm đường trốn thoát. Trên đường đi, họ phải chịu đựng nhiều khó khăn, và trong lòng đầy ôm uất hận. Khi đến cửa ải, họ gặp lại đội quân của Tôn Sĩ Nghị. Cả hai bên đều nhìn nhau với sự than thở và oán trách, nước mắt rơi không ngừng. Tôn Sĩ Nghị cũng cảm thấy rất xấu hổ về sự thất bại của mình.
Sau trận chiến kết thúc, quân ta giành chiến thắng vang dội. Toàn bộ quân Thanh đã bị tiêu diệt. Các kẻ đồng lòng với kẻ bán nước cũng sợ hãi và không dám mưu đồ gì nữa. Không chỉ vùng đất mà cả tiếng vang của chiến thắng còn vẹn nguyên, ngay cả sau hàng chục năm, nhà Thanh cũng không dám động vào lãnh thổ của chúng ta.
Sau đó, chúng tôi ở lại một thời gian ngắn, hỗ trợ nhân dân trở về và tái thiết cuộc sống. Nhà vua đã sắp xếp lại hệ thống chính quyền và cung cấp thông tin để bà con yên tâm. Cùng với đó, binh lính Tây Sơn và người dân địa phương tiến hành khai hoang, mở ruộng, và tăng cường sản xuất. Trong thời gian ngắn, Bắc Hà đã phục hồi và phát triển mạnh mẽ hơn trước đây. Đất nước từ đó được bình yên và thịnh vượng. Khắp nơi vang lên những lời ca tụng và ca hát tôn vinh công lao của các anh hùng tài danh.
Sau khi trở về kinh thành, tôi được thăng chức lên làm Trưởng cơ Đội cận vệ. Tôi rất tự hào được nhà vua tin tưởng và giao phó nhiều trọng trách. Là một người con của Tây Sơn, tôi cam kết bảo vệ biên cương và tỏ ra kiêng nhẫn trong trách nhiệm của mình. Tôi vô cùng tự hào được ở gần vị minh quân và hứa rằng sẽ chiến đấu hết mình để bảo vệ đất nước và tiêu diệt kẻ thù.
Người lính kể lại Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 3
Đêm nay trăng sáng rất đẹp, nhưng các em bé vẫn chưa muốn đi ngủ, chúng đang say mê chơi trò chơi chiến đấu giả trên sân. Tiếng reo hò và sự cổ vũ của chúng gợi lại trong tôi những ký ức đẹp về thời điểm tham gia vào quân đội Tây Sơn, một thời kỳ của những trận chiến và chiến thắng vang dội, đặc biệt là chiến công lịch sử chống lại quân Thanh dưới sự chỉ huy của Quang Trung.
Khi còn trẻ, tôi sinh sống ở huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn. Vào mùa xuân năm 1771, Tây Sơn nổi lên với cuộc khởi nghĩa chấn động, lật đổ chế độ của Trương Phúc Loan và phân phát tài sản của nhà giàu cho người nghèo, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ. Tôi đã gia nhập vào quân đội của Tây Sơn. Có thể nói chiến thắng của quân Tây Sơn chủ yếu là nhờ vào tài năng chỉ huy của Nguyễn Huệ - một vị tướng tài ba, cao lớn, với mái tóc xoăn và ánh mắt sáng như đèn, cùng giọng nói truyền cảm như tiếng chuông. Khi vua Lê Chiêu Thống bỏ chạy sang Trung Quốc, Nguyễn Nhạc lên ngôi đế vương, còn Nguyễn Huệ trở thành Bắc Bình Vương. Tôi được giao nhiệm vụ bảo vệ ngài và đã chứng kiến với mắt của mình tài năng và sự kiên cường của vị anh hùng này trong việc bảo vệ đất nước.
Ngày 24 tháng mười một năm Mậu Thân, khi nhận được thông báo rằng quân Thanh đã chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ tức giận và tổ chức cuộc họp với các tướng sĩ để quyết định việc điều binh ngay lập tức. Tuy nhiên, tất cả mọi người trong cuộc họp đều khuyên rằng ngài nên ở lại và bình dân, sau đó mới cử quân ra Bắc. Do đó, vào ngày 25 tháng Chạp, Bắc Bình đã lên ngôi Hoàng đế, mang niên hiệu Quang Trung và ra lệnh cho quân lính xuất phát.
Ngày 29 tháng Chạp, Quang Trung đến Nghệ An để thảo luận với Nguyễn Thiếp về việc tiến binh. Nghe Nguyễn Thiếp nói rằng chỉ trong vòng không quá mười ngày, quân Thanh sẽ bị tiêu diệt, vua rất vui mừng và lập tức tuyển lính, duyệt binh, sau đó động viên tinh thần tướng sĩ. Tất cả mọi người, kể cả tôi, đều rất xúc động và tràn đầy hăng hái và tự tin trước cuộc chiến sắp diễn ra, dù quân địch có lên tới hai mươi vạn.
Ngày 30 tháng Chạp, Quang Trung đến Tam Điệp và ân xá cho Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân, hai người bị buộc tội đã rút quân mà chưa tham chiến, vì họ chỉ muốn rèn võ. Quang Trung biết rằng đó là một kế sách của Ngô Thì Nhậm nhằm bảo vệ quân lực, giữ vững các vị trí quan trọng và tạo điều kiện cho quân Tây Sơn tấn công bất ngờ. Ngài cũng kế hoạch sau khi chiến thắng sẽ gửi Ngô Thì Nhậm sang thương lượng với nhà Thanh để củng cố quân lực và xây dựng đất nước. Sau đó, vua mở tiệc mừng quân lính. Vào tối ngày 30, năm đội quân bắt đầu hành quân ra Bắc. Sau đó, ông chia quân thành năm đội, đội dẫn đầu do Quang Trung trực tiếp chỉ huy, hướng thẳng về Thăng Long. Các đội tiếp theo sẽ tấn công phía tây và yểm trợ cho đội dẫn đầu. Đội thứ tư sẽ tiến vào Hải Dương. Đội thứ năm sẽ đi lên Lạng Giang - Bắc Giang, để chặn đường lui của quân địch. Khi tiến đến Thăng Long, để giữ sức cho quân lính, ông sai dùng cáng làm võng, hai người vuốt một người nằm nghỉ và tiếp tục hành quân suốt đêm.
Khi quân Tây Sơn đến sông Thanh Quyết, Quang Trung bắt giữ hết quân do thám đang chạy trốn, làm cho quân địch ở Hà Hồi và Ngọc Hồi không biết gì cả.
Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng năm Kỉ Dậu, vua Quang Trung cho bao vây làng Hà Hồi, bắc loa gọi mọi người dạ ran để tiêu diệt như có vạn người. Quân giặc trong đồn sợ hãi, xin hàng. Quân Tây Sơn thu hết lương thực và cung cấp cho binh lính.
Trong trận đánh tại đồn Ngọc Hồi, tôi nhận thấy Nguyễn Huệ rất thận trọng. Đêm mùng bốn, khi tôi đang trực gác bảo vệ vua, tôi thấy ông vẫn tỉnh táo suốt đêm. Đồn Ngọc Hồi được xây dựng chắc chắn, bao quanh đều được cắm chông và chôn địa lôi. Trước khi tấn công đồn Ngọc Hồi, vua Quang Trung đã ra lệnh làm sẵn sáu mươi tấm ván, mỗi ba tấm ghép thành một bức, ngoài cùng được phủ rơm ướt, tổng cộng hai mươi bức. Sau đó, lính khỏe mạnh được chọn lựa, mỗi nhóm mười người mang một bức, với dao ngắn gắn ở lưng, hai mươi người khác cầm binh khí theo sau, sắp xếp thành hình chữ 'nhất'. Vua Quang Trung cưỡi voi tiến vào trận đánh, nhóm của chúng tôi không chỉ bảo vệ vua mà còn tham gia vào cuộc chiến theo sự chỉ huy của ông. Sáng sớm ngày mùng năm, chúng tôi tiến gần đến đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng, nhưng không gây thiệt hại. Sử dụng gió bắc, quân Thanh đã phun khói để làm quân Tây Sơn hoảng loạn. Tuy nhiên, gió bắt đầu thổi từ phía nam, khiến quân Thanh mất trật tự. Quang Trung lập tức ra lệnh cho nhóm ván tiến lên che phủ. Khi hai bên gươm giáo đã gặp nhau, nhóm ván được ném xuống, mọi người sử dụng dao ngắn tấn công, các lính cầm gươm giáo theo sau cũng tham gia vào cuộc chiến. Đồng thời, đạo quân thứ hai và thứ ba tấn công đồn Đống Đa, làm thất bại Sầm Nghi Đống. Quân Thanh bị đánh bại, xác chết trải đầy đồng, máu chảy thành dòng.
Trong trận tấn công Thăng Long, Quang Trung đã sắp xếp đạo quân theo thế gọng kìm, với đạo quân thứ năm bố trí ở hướng đông. Quân Thanh sợ hãi và tìm đường tắt, nhưng lại gặp đạo quân thứ năm. Họ phải lùi về đầm Mực, và làng Quỳnh Đô thì bị quân Tây Sơn tiến vào và đánh bại. Trong buổi trưa của ngày mùng năm Tết, Quang Trung đã dẫn quân vào Thăng Long. Khi Tôn Sĩ nghe tin Quang Trung đang tấn công đồn Ngọc Hồi, hắn hoảng sợ và bỏ chạy về phía bắc. Quân Thanh cũng hoảng loạn, cố tránh nhau qua cầu. Cầu bị đứt, làm cho quân Thanh rơi vào sông Nhị Hà. Vua Lê Chiêu Thống cùng đoàn tùy tùng bỏ chạy sang Trung Quốc.
Chiến công lịch sử của Quang Trung trong việc đánh bại quân Thanh là niềm tự hào của dân tộc. Dù quân Thanh có hai mươi vạn, nhưng với tài năng chỉ huy xuất sắc của Nguyễn Huệ, tình yêu nước sâu sắc và sự đoàn kết của các tướng lĩnh, đội quân Tây Sơn đã tạo ra một kỳ tích. Sau khi vua mất, Nguyễn Ánh lật đổ nhà Tây Sơn, thành lập nhà Nguyễn. Những người lính như tôi sau một thời gian bị bắt đã được thả về quê hương. Dù thời gian có trôi qua, nhưng cảm giác chiến thắng vẫn còn mãi trong lòng, hình ảnh của anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ vẫn sống mãi trong lòng của tôi và các tướng lĩnh từng cùng ông tham gia vào cuộc chiến.
Người lính kể lại Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 4
Tôi là một người lính, được tuyển chọn vào ngày 29 tháng Chạp tại Nghệ An - quê hương của tôi, bởi đại tướng Hám Hổ Hầu trực tiếp. Mỗi ba người trai tráng thì được chọn một người. Không mất quá nhiều thời gian, số lượng lính mới đã lên đến hơn mười nghìn người. Tôi được giao vào đội trung quân, trực tiếp dưới sự chỉ huy của vua.
Sau khi tuyển lính, vua đã tổ chức một cuộc duyệt binh lớn. Trong buổi duyệt binh, vua đã phát biểu khích lệ quân lính. Trong lời phát biểu đó, câu nổi bật nhất của Người là: “…Nay quân Thanh lại xâm lược, âm mưu chiếm lấy các tỉnh Nam của chúng ta, coi chúng như lãnh thổ của họ, không biết rằng sương mù đã bao lần che phủ các triều đại Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì thế, chúng ta phải dẫn quân ra trận để đánh bại chúng…”. Ngày hôm sau, vào ngày 30 tháng Chạp, vua ra lệnh tiến quân. Khi đến núi Tam Điệp, hai tướng Sở và Lân ra đón, đều mang theo gươm và chịu tội. Vua khen ngợi, phê phán, thưởng phạt công bằng các tướng lĩnh, khiến tôi cảm phục vô cùng. Trong buổi tiệc mừng sau đó, vua chia quân ra thành năm đạo. Nghe nói, vua đã tiên đoán với các tướng: hẹn ngày mồng bảy Tết sẽ quay lại Thăng Long và tổ chức tiệc mừng. Tin tức này khiến chúng tôi phấn khích không thôi. Vào ngày 30 tháng Chạp, cả năm đạo quân đã sẵn sàng ra đường…
Khi quân đến sông Gián, binh lính của quân Thanh trên đó đã tan rã và bỏ chạy trước. Khi đến sông Thanh Quyết, gặp một đoàn quân Thanh do thám, vua ra lệnh đuổi theo và bắt sống hết. Do đó, vào nửa đêm ngày mồng ba tháng giêng, khi quân ta tiếp cận đồn Hà Hồi, huyện Thượng Phúc, lặng lẽ vây quanh đồn và bắt đầu kêu gọi. Khi đó, những người lính ở trong đồn hoảng sợ và xin hàng. Quân ta bên ngoài tổ chức nghi lễ, luân phiên dọa rợn để tạo ấn tượng, nghe như có hàng vạn người. Do đó, tất cả lính trong đồn Hà Hồi đều đầu hàng và chúng tôi thu thập lương thực và vũ khí. Đồn Hà Hồi đã bị quân ta chiếm giữ mà không mất một viên đạn, một hòn đạn nào.
Để tấn công đồn Ngọc Hồi, vua đã ra lệnh cho chúng tôi làm sẵn sáu mươi tấm ván, mỗi ba tấm ghép thành một bức, bên ngoài phủ rơm ướt kín. Tổng cộng có hai mươi bức. Tôi được chọn là một trong số lính mạnh mẽ, mỗi nhóm mười người mang một bức, với dao ngắn gắn ở lưng. Hai mươi người khác cầm binh khí theo sau, sắp xếp thành hình chữ “nhất”. Vua Quang Trung cưỡi voi đứng ra chỉ huy. Sáng sớm mồng năm, quân ta đã tiến đến gần và bao vây đồn Ngọc Hồi. Khi gươm giáo của hai bên va chạm, tất cả chúng tôi đều ném ván xuống đất và sử dụng dao ngắn để tấn công. Quân Thanh hoảng loạn, xông lên nhau mà chạy. Sầm Nghi Đống, người thủ lãnh ở Điền Châu, đã tự sát bằng cách tự tỏa cổ. Quân của Quang Trung đã tận dụng cơ hội và tiến lên. Quân Thanh đã bị đánh bại. Vua Quang Trung còn đưa voi xuống Đầm Mực, khiến kẻ thù phải trốn vào dưới đầm và chết đuối.
Trong buổi trưa mồng năm tháng giêng, vua Quang Trung đã chỉ huy đội quân tiến vào Thăng Long dưới sự hoan hỷ của người dân trong thành. Là một người lính trong đội quân chiến thắng, tôi tự hào và hạnh phúc vô cùng. Đúng như lời tiên đoán hai ngày trước của vua…
Khi nhìn thấy vua cưỡi voi dẫn đầu quân đội tiến vào Thăng Long, trong bộ áo long bào màu đen của Người bị khoác lên bởi khói súng… tôi bị xúc động, rưng rưng nước mắt, kính phục và tự hào vô cùng về vị vua Quang Trung. Từ nay về sau, cuộc sống của hàng ngàn gia đình được bảo đảm, hòa bình thịnh vượng. Là một người lính trong đội quân của vua Quang Trung, tôi thật sự hạnh phúc và tự hào.
Thủ vai một người lính kể về chiến công của Hoàng Lê - Phần 5
Nghe tin quân Thanh chiếm Thăng Long, dù tôi chỉ là một nông dân bé nhỏ nhưng lòng tôi đã bốc lửa và tức giận. Trong tâm trí của tôi, mong muốn lớn nhất là đuổi kẻ xâm lược ra khỏi đất nước. May mắn thay, vua Quang Trung lên ngôi, triệu lính vào nghĩa quân Tây Sơn, tôi đã tự nguyện gia nhập đội quân ấy.
Ngày 29 tháng Chạp năm 1788, khi nghe về việc vua Quang Trung triệu lính, nhà tôi có ba suất tuyển, tôi đã đăng ký ngay. Sau đó, vua tổ chức cuộc duyệt binh ở doanh trấn và phân thành 5 doanh, tôi ở doanh trung quân. Vua không chỉ tập hợp quân lính mà còn tự mình đến doanh để động viên chúng tôi. Ngài giảng giải và phân tích chiến lược của quân Thanh, kêu gọi chúng tôi đoàn kết để chung tay tạo ra chiến thắng. Vua nói:
- Nay quân Thanh đã xâm lược nước nhà, chúng ta cùng nhau đánh đuổi chúng đi, nếu có kẻ phản bội, sẽ bị trừng phạt không thương tiếc!
Nghe xong, tôi càng quyết tâm và tin tưởng vào vua Quang Trung. Tôi cùng đồng đội điều chỉnh trang bị và chuẩn bị cho hành trình tiếp theo. Đến ngày 30 tháng Chạp, khi đến núi Tam Điệp, sau khi vua phân công nhiệm vụ cho rõ ràng các tướng sĩ, ngài tổ chức tiệc khao quân và lệnh rời đi vào đêm mùng 30, vua nói:
- Hãy tạm thời nghỉ ngơi Tết, tối nay chúng ta lên đường, đến mùng 7 sẽ vào Thăng Long ăn mừng, nhớ rằng không được phụ lòng người!
Các đội quân của chúng tôi lập tức tuân thủ mệnh lệnh và lên đường. Quân Tây Sơn với tinh thần cao cả, nơi nào chúng đi qua, kẻ địch đều rúng động và sợ hãi. Từ sông Gián đến sông Thanh Quyết, và rồi đến Phú Xuyên, đội quân do thám bắt sống không kịp trở về báo tin. Vào đêm mùng 3, chúng tôi đến làng Hà Hồi, không cần phải chiến đấu, chỉ cần phát ra tiếng hô là địch đã sợ hãi và xin hàng. Để chuẩn bị cho trận đánh Ngọc Hồi, vua ra lệnh đóng các tấm ván gỗ, phủ rơm dấp nước ở bên ngoài.
Ngày mùng 5 đến đồn Ngọc Hồi, chúng tôi dùng 20 người khiêng mỗi tấm gỗ, sắp xếp thành hình chữ 'Nhất' và tiến lên trận. Súng đạn của quân Thanh không trúng mục tiêu, ngược lại, họ còn bị khói lửa tự mình phun ra hại mình. Quân ta dùng dao ngắn chém giặc tan tác, khiến chúng sợ hãi và chạy tán loạn, xông lên nhau chết sạch. Kẻ Thái thú thắt cổ chết, quân ta đuổi theo giết hết, đuổi đến đầm Mực cho voi kéo lùa, giết chết hàng vạn kẻ thù. Giữa trưa mùng 5, quân chúng tôi tiến vào Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị sợ hãi ngựa không kịp đóng yên, người không mặc áo giáp chạy về hướng bắc. Quân lính Thanh chạy qua cầu tới mức cầu đứt, xác chết rơi xuống làm tắc nghẽn sông Nhị Hà. Vua Lê cũng bỏ chạy thục mạng, biến mất không dấu vết. Sau này mới biết bọn thù đã chọn lối thoát để thoát khỏi sự truy đuổi.
Sau khi kết thúc trận đánh, đội quân nghĩa tận hưởng chiến thắng, quân Thanh đánh bại và bỏ chạy về nước, vua tôi Lê Chiêu Thống chịu một kết cục bi thảm. Điều này thật đáng cho những kẻ hung ác xâm lược và cả những kẻ chỉ biết vì lợi ích cá nhân mà phản bội và hại dân.