Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích của Nguyễn Du gây ấn tượng mạnh trong lòng độc giả, để lại cảm xúc sâu sắc khó phai. Đây là minh chứng cho tài năng miêu tả tâm trạng nhân vật của đại thi hào Nguyễn Du. Mời các em cùng khám phá bài viết để được thêm vốn từ và hiểu sâu về môn Văn 9.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích của Nguyễn Du để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả, khơi gợi nhiều cảm xúc khó quên. Bài viết giúp chúng ta thấy rõ sự tài năng của Nguyễn Du trong việc miêu tả tâm trạng nhân vật. Hãy cùng tìm hiểu để nâng cao vốn từ và kỹ năng Văn 9 của mình nhé.
1. Vị trí đoạn trích
- Đoạn trích nằm ở phần II: Gia biến và lưu lạc.
- Liên quan đến sự kiện: Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt và làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều quyết định không tiếp khách làng chơi, sống trong tình cảnh tủi nhục ở lầu xanh. Vì quá đau đớn, Thuý Kiều đã tự tử. Tú Bà sợ rằng nếu Thuý Kiều chết thì sẽ không còn cơ hội lừa gạt và dụ dỗ Kiều nữa, mà còn bị chê cười với câu 'đi đời nhà ma'. Vì thế, Tú Bà đã dùng mưu kế để lừa gạt Kiều, vờ chăm sóc bệnh thương cho Kiều và hứa hẹn rằng khi Kiều bình phục sẽ được gả cho người đàn ông tốt. Tuy nhiên, thực chất Tú Bà chỉ đưa Kiều ra sống riêng ở Ngưng Bích để thực hiện một âm mưu đê tiện và tàn bạo hơn.
2. Bố cục
Đoạn trích này được chia thành ba phần:
- Phần 1 (6 câu thơ đầu): Miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên ở lầu Ngưng Bích qua con mắt đầy cảm xúc của Kiều.
- Phần 2 (8 câu thơ tiếp theo): Sự nhớ nhung và tình cảm mà Kiều dành cho người yêu và gia đình.
- Phần 3 (tám câu thơ cuối): Bức tranh tâm trạng của Kiều.
3. Giá trị nội dung
- Đoạn trích này đã chân thực miêu tả cảnh cô đơn, buồn tủi và đáng thương; cũng như sự nhớ nhung đến người thân và tình cảm thủy chung, hiếu thảo và vị tha của Thúy Kiều khi bị giam giữ ở lầu Ngưng Bích.
4. Giá trị nghệ thuật
- Miêu tả cảnh sắc bằng lối chấm phá gợi tả, tả cảnh ngụ ý.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lý chân thực, tinh tế.
Thuyết minh về Kiều ở lầu Ngưng Bích một cách ngắn gọn
Đoạn trích “Kiều ở Lầu Ngưng Bích” được lấy từ tác phẩm Truyện Kiều của tác giả Nguyễn Du. Nó nằm ở phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc”.
Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa dối và làm nhục, mặc dù bị Tú Bà mắng chửi, nhưng Kiều vẫn quyết định không tiếp khách làng chơi, không chịu sống như kĩ nữ ở lầu xanh. Vì quá đau đớn và tủi nhục, phẫn uất, Kiều đã quyết định tự tử, khiến Tú Bà sợ mất vốn nên đã lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ giả vờ chăm sóc bằng thuốc thang, hứa hẹn rằng khi nàng bình phục sẽ gả nàng cho người đàn ông tốt.
Chính vì vậy Tú bà đã đưa Kiều ra sống riêng ở Lầu Ngưng Bích, nhưng thực tế là để giam lỏng nàng và thực hiện những âm mưu mới đê tiện và tàn bạo hơn. Đoạn trích này được chia thành ba phần: phần đầu miêu tả hoàn cảnh cô đơn và tội nghiệp của Kiều, phần tiếp theo là miêu tả nỗi nhớ Kim Trọng và nhớ thương cha mẹ của nàng, phần cuối diễn tả tâm trạng đau buồn, lo lắng của Kiều thông qua cách nhìn của nàng về cảnh vật. Đoạn trích “Kiều ở Lầu Ngưng Bích” đã chân thực miêu tả cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và đáng thương của Kiều, đồng thời cũng lộ rõ nỗi nhớ gia đình, người yêu và nhớ người thân, tấm lòng thủy chung và hiếu thảo, vị tha của Kiều đang bị giam giữ, trói buộc ở Lầu Ngưng Bích.
Đoạn trích này là một thành công của tác giả Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm nhân vật đặc biệt, bằng cách tả cảnh ngụ ý một cách tinh tế nhất trong toàn bộ tác phẩm “Truyện Kiều”. Nó cũng thể hiện sự đồng cảm và lòng thương xót của tác giả dành cho số phận và những khổ đau của Kiều.
Thuyết minh về đoạn trích Kiều ở Lầu Ngưng Bích - Mẫu 1
Nguyễn Du không chỉ xuất sắc trong nghệ thuật miêu tả nhân vật mà còn là một người có tài trong việc miêu tả thiên nhiên, tâm tình ngụ của con người. Mỗi bức tranh dưới bàn tay của Nguyễn Du luôn thể hiện hai chức năng chính: thể hiện ngoại cảnh và tâm trạng. Tám câu thơ cuối trong bài “Kiều ở Lầu Ngưng Bích” đã làm rõ tài năng này của ông.
Sau khi bị lừa vào lầu xanh, Kiều sống trong đau đớn, ê chề, với bản tính trọng nhân phẩm, nàng đã tìm đến cái chết nhưng không thành công. Thúy Kiều bị Tú Bà giam giữ ở Lầu Ngưng Bích, chờ đến ngày thực hiện âm mưu mới. Trong những ngày ở đây, nàng sống trong đau đớn, tủi hổ, cô đơn và tuyệt vọng đến cùng cực.
Trong cảnh cô đơn, dường như mọi người đều nhớ về gia đình. Người con gái trong ca dao, dù đã lấy chồng, nhưng trong những khoảnh khắc cuối ngày vẫn nhớ về quê mẹ:
Chiều về đứng ngõ sau
Nhìn về quê mẹ ruột đau chín chiều
Thậm chí với nàng Kiều, người phụ nữ với số phận bị đẩy đi, bán mình để cứu gia đình, nỗi nhớ gia đình càng trở nên da diết hơn bao giờ hết:
Buồn nhìn cửa bể chiều tàn
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Không gian mênh mông của cửa bể kết hợp với hình ảnh thuyền thấp thoáng phía xa gợi lên không gian rộng lớn, hoang vắng. Cánh buồm trở nên nhỏ bé hơn trong không gian rộng lớn đó. Tình hình của nàng cũng không khác gì cánh buồm ấy, lênh đênh, nhỏ nhoi giữa cuộc đời không chắc chắn. Đồng thời tác giả cũng rất khéo léo chọn thời gian cho nỗi nhớ, ấy là “chiều tàn”. Trong văn học, không gian chiều thường gợi lên nỗi buồn man mác, ở đây trong hoàn cảnh của Kiều, nỗi buồn ấy liên quan đến khát khao được sum họp, đoàn tụ, được trở về bên quê hương, gia đình.
Sau nỗi buồn xa xứ, nàng nghĩ về thân phận mình mà càng đau lòng hơn: “Buồn nhìn ngọn nước mới sa/ Hoa trôi man mác biết là về đâu?”. Hình ảnh ẩn dụ “hoa trôi” là biểu trưng cho thân phận của nàng Kiều. Ngọn nước mới sa kia có sức mạnh ghê gớm, là những giông bão, sóng gió trong cuộc đời đã vùi dập nàng. Những cánh hoa trôi man mác cũng như thân phận bé bỏng, mong manh của nàng. Cuộc đời nàng lênh đênh theo dòng đời, không biết tương lai sẽ đi đâu về đâu. Câu hỏi tu từ “biết là về đâu” như một lời than, một lời ai oán cho số phận bất hạnh. Qua đó càng nhấn mạnh hơn nữa thân phận chìm nổi, bèo bọt của nàng.
Trong tác phẩm của Nguyễn Du, sắc xanh đã xuất hiện nhiều lần, mỗi lần xuất hiện đều mang ý nghĩa khác nhau. Nếu như trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, sắc xanh tượng trưng cho sự sống, tươi tốt mơn mởn, thì trong đoạn trích này màu xanh lại mang một ý nghĩa khác: “Buồn nhìn nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”. Nội cỏ chỉ mang một màu tàn lụi héo úa. Sắc xanh cũng nối chân trời mặt đất với nhau nhưng lại nhạt nhòa, đơn sắc. Tất cả những màu sắc đó hòa điệu với nhau càng khiến cho tâm trạng Kiều trở nên ngao ngán, chán nản hơn. Kiều nhìn ra bốn phía để tìm được sự đồng điệu, tìm sự sẻ chia. Vậy mà, khung cảnh chỉ càng làm nàng thêm u sầu, ảo não. Quả thực “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Dưới con mắt tuyệt vọng của nàng, khung cảnh nào cũng chỉ thấm đầy nỗi buồn chán, bế tắc và vô vọng. Điều đó càng đẩy Kiều rơi vào sâu hơn hố sâu của sự sầu muộn, tuyệt vọng.
Hai câu thơ cuối cùng có thể coi là đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, sự hoang mang, rợn ngợp của Kiều đã được tác giả tập trung bút lực thể hiện rõ nhất trong hai câu thơ này:
Buồn nhìn gió cuốn mặt đênh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh bến thuyền
Cảnh cuối thiên nhiên hiện ra thật dữ dội, đó không chỉ còn là ngoại cảnh mà còn là tâm cảnh, Kiều tưởng mình không còn ngồi ở lầu Ngưng Bích mà đang ngồi giữa biển khơi mênh mông, xung quanh là sóng biển gào thét như muốn nhấn chìm nàng xuống biển. Đặc biệt từ láy “ầm ầm” vừa diễn tả một khung cảnh khủng khiếp vừa diễn tả tâm trạng buồn lo, hoảng loạn của Thúy Kiều. Nàng đang dự cảm những giông bão của số phận, rồi đây sẽ nổi lên và nhấn chìm cuộc đời mình.
Đoạn thơ đã vận dụng tài tình nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, mỗi cảnh là một tâm trạng, là một nỗi đau mà Kiều phải gánh chịu. Không chỉ vậy Nguyễn Du còn có sự miêu tả theo trình tự hợp lý: Từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt nhòa đến đậm nét, khắc họa nỗi buồn da diết của Kiều. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, lớp từ láy giàu giá trị tạo hình và biểu cảm. Tất cả những yếu tố đó góp phần tạo nên thành công cho đoạn trích.
Tám câu thơ cuối là một tuyệt tác của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Bằng những bức tranh đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc họa được những trạng thái xúc cảm, nỗi cô đơn, lo âu, sợ hãi về tương lai đầy sóng gió của nàng Kiều. Không chỉ vậy, qua bức tranh ấy, Nguyễn Du cho thể hiện niềm cảm thương sâu sắc cho số phận nàng nói riêng và số phận người phụ nữ nói chung dưới chế độ phong kiến.
Thuyết minh đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 2
Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho nhau.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha mẹ.
Kết cấu của đoạn trích rất hợp lí: Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về những bão tố cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.
Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán nản, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích.
Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với những người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguyễn Du miêu tả rất xúc động trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim được nói đến trước vì đây là nỗi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nỗi nhớ đó được xoáy sâu vào đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đó:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang ngày đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào nàng cùng với chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi hẹn với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi ngả. Rồi bất chợt Kiều liên tưởng đến thân phận 'bên trời góc bể bơ vơ' của mình và tự dằn vặt: 'Tấm son gột rửa bao giờ cho phai'. Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, nàng thấm thía tình cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ có thể gột rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim cũng sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc.
Nhớ người yêu, Kiều càng xót xa nghĩ đến cha mẹ. Mặc dầu nàng đã liều đem tấc cả, quyết đền ba xuân, cứu được cha và em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng nghĩ về cha mẹ, bao trùm trong nàng là một nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lòng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không biết khi thời tiết thay đổi ai là người chăm sóc cha mẹ. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ, điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn, trăn trở của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu thảo.
Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuối cùng nàng Kiều lại quay về với cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu... Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng, xa xa không rõ, như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc mỗi xa. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh bất tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.
Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh.
Thuyết minh đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 3
Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh 'êm đềm trướng rủ màn che'. Kiều đã trở thành món hàng trong màn mua bán của Mã Giám Sinh và giờ nàng đang sống trong cô đơn, nhớ thương đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích. Hai mươi hai câu thơ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện rõ bức tranh tâm cảnh của Kiều. Sống nơi lầu Ngưng Bích là kiểu sống trong sự cô đơn tuyệt đối:
'Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.'
Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ 'khóa xuân' đã nói lên điều đó. 'Khóa xuân' ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, giờ lại bị đày vào chốn lầu xanh ô nhục. Trong cảnh ngộ như thế. Kiều chỉ còn biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình. Tâm trạng Kiều trải ra theo cái nhìn cảnh vật. Nhìn lên trên là vầng trăng đơn côi, nhìn xuống mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô gợn sóng bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm. Lầu Ngưng Bích là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Cái lầu cao ngất nghểu, trơ trọi ấy giam hãm một thân phận trơ trọi. Không một bóng người, không một sự chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên câm lặng làm bạn. Kiều chỉ có một mình để tâm sự, để đối diện với chính mình. Trong cái không gian rợn ngợp và thời gian dài dặc, quẩn quanh 'mây sớm đèn khuya' gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi đơn côi khiến Kiều càng thấy 'bẽ bàng' chán nản, buồn tủi. Sớm và khuya, ngày và đêm Kiều thui thủi một mình nơi đất khách quê người, nàng chỉ còn biết làm bạn với mây và đèn. Trong nỗi cô đơn tuyệt đối ấy, lòng Kiều dồn tới lớp lớp những chua xót. Buồn vì cảnh hoang vu, rợn ngợp và buồn vì ái tình riêng khiến lòng như bị xé: 'Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng'. Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã nói lên những nỗi lòng của Thúy Kiều. Đó là sự cô đơn, vô vọng đến tuyệt đối và đó là những dư vị của bao tháng ngày gian khổ sưng tấy. Tạm quên đi những chia xẻ trong lòng, Kiều nhớ về những người thân: 'Tưởng người dưới nguyệt chén đồng / Tin sương luống những rày trông mai chờ'. Đối với những quy định phong kiến, Kiều nhớ về người yêu rồi nhớ đến cha mẹ. Trong lúc này, nỗi đau đớn tình người yêu nữa còn da diết. Kỷ niệm còn mới đây thôi. Hơn thế nữa Kiều lại bị Mã Giám Sinh mua chuộc, sớm đó bị đưa vào lầu xanh nên nỗi đau lớn nhất của nàng lúc này là: 'Tấm son gột rửa bao giờ cho phai'. Chính bởi thế mà người đầu tiên nàng nghĩ tới là chàng Kim. Với cha mẹ nàng đã hy sinh bán mình nên phần nào đã đền đáp được ơn sinh thành. Còn với Kim Trọng, nàng là kẻ phụ tình, tối hẹn. Trong tâm cảnh như thế, để Kiều nhớ chàng Kim trước là sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ tới người yêu là nhớ tới đêm trăng thề nguyền. Vừa mới hôm nào, nàng cùng chàng uống chén rượu thề nguyền son sắt, một lòng cùng nhau một đời mà nay mối tình duyên đã chia đột ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim rỉ máu. Kiều đau đớn hình dung Kim Trọng vẫn ngày ngày hướng về nàng để chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ chàng Kim bao nhiêu thì Kiều lại thương cho thân mình bấy nhiêu. Thương mình bơ vơ bên trời góc bể, càng nuối tiếc mối tình đầu, càng hiểu rằng tấm son mà nàng dành cho chàng Kim chẳng bao giờ nguôi ngoai. Không chỉ vậy mà tấm son đã bị hoen ố của nàng đến khi nào mới rửa cho được. Trong nỗi nhớ còn có cả nỗi xót xa, ân hận, tủi hổ. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn, Kiều đã tạm để nỗi lòng mình lắng xuống và nhớ tới Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng chung thủy của một con người. Nếu khi nhớ tới Kim Trọng. Kiều 'tưởng' thì khi nghĩ tới cha mẹ Kiều 'xót':
'Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm'.
Nàng thương cha mẹ từ bấy đến nay vẫn sớm chiều tựa cửa chờ tin đứa con lưu lạc. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể quạt nồng, ấp lạnh, phụng dưỡng song thân khi già yếu. Thành ngữ 'quạt nồng ấp lạnh', điển cố 'Sân Lai, gốc tử' đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay. Cha mẹ thì mỗi người thêm một già yếu mà nàng thì chẳng thể ở bên chăm sóc. Giờ đây khoảng cách không gian giữa nàng và cha mẹ là cách mấy nắng mưa. Thiên nhiên không chỉ tàn phá cảnh vật mà còn tán phá cả con người. Lần nào khi nhớ tới cha mẹ. Kiều cũng nhớ ơn chín chữ cao sâu và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được gửi vào chiều dài thời gian, vào chiều sâu không gian bởi vậy mà càng thêm da diết, sâu xa. Dù đau buồn bất hạnh nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương, nhân hậu, vị tha. Nàng là người tình chung thủy, là người con rất mực hiếu thảo, là người có tấm lòng vị tha đáng trọng. Hai nỗi nhớ được biểu hiện khác nhau đó cũng là sự cảm thông lạ lùng của nhà thơ, tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du đối với con người. Vẫn việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc, những nỗi buồn khác nhau với lí do buồn khác nhau, trong lòng Kiều đã buồn tác động lại khiến càng buồn hơn và nỗi buồn ngày một ghê gớm, mãnh liệt hơn.
'Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ẩm âm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.'
Tám câu thơ vừa là bức tranh tâm cảnh mà cũng là thực cảnh. Cảnh được miêu tả theo kiểu tứ bình trong con mắt trông bốn bề và từ xa tới gần. Cảnh đầu tiên mà Kiều trông thấy là bể lúc chiều hôm: 'Buồn trông cửa bể chiều hôm / Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?'. Không gian mênh mông và thời gian khi chiều tà muôn thuở gợi buồn. Giữa khung cảnh ấy chỉ có một con thuyền vô định và hiện hữu với cánh buồm thấp thoáng xa xa như một ảo ảnh. Cảnh đã gợi trong lòng người tha hương nỗi buồn nhớ về cha mẹ, quê nhà xa cách, nỗi cô đơn và khát khao sum họp. Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi trong lòng Kiều nỗi buồn về thân phận trôi nổi, không biết rồi sẽ bị trôi dạt, bị vùi dập ra sao: 'Buồn trông ngọn nước mới sa/ Hoa trôi man mác biết là về đâu!' càng làm Kiều xót xa cho duyên phận, số kiếp của mình. Sau một cửa biển, một cánh hoa giữa dòng nước là cảnh của một nội cỏ.
'Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh'.
Cả một nội cỏ trải ra mênh mông nhưng khác với cỏ trong ngày Thanh minh. Đó là 'cỏ non xanh rợn chân trời', còn cỏ ở đây 'rầu rầu'. Một màu vàng úa gợi tới sự héo tàn, buồn bã. Màu xanh nhàn nhạt trải dài từ mặt đất tới chân mây không phải màu xanh của sự sống của hy vọng mà chỉ gợi nỗi chán ngán vô vọng vì cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh này không biết bao giờ mới kết thúc. Cảnh mờ mịt cũng giống như tương lai mờ mịt, thân phận nội cỏ hoa héo của Thúy Kiều. Và cuối cùng là cảnh con sóng nổi lên ầm ầm sau cơn gió: 'Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/ Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.' Tiếng sóng như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay cũng chỉ là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên. Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như đang đứng trước sóng gió, bão táp của cuộc đời này sắp đổ xuống đầu nàng. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động. Cảnh ngày một rõ hơn để diễn tả nỗi buồn từ man mác mông lung đến âu lo kinh sợ dồn đến bão táp nội tâm. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng mờ ảo bởi nó được nhìn theo quy luật 'cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'. Và đó cũng là hiện thân, là tang vật của quá khứ khổ đau, hiện tại lẻ loi bất hạnh và báo hiệu một tương lai khủng khiếp. Tất cả đều là hình ảnh về sự vô định, mong manh, vô vọng, sự trôi dạt, bế tắc. Đoạn thơ gồm bốn cặp câu lục bát cũng là bốn cảnh và cặp câu được liên kết nhớ điệp ngữ 'buồn trông'.
'Buồn trông cửa biển chiều hôm
Buồn trông ngọn nước mới xa
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh'.
'Buồn trông' là việc nhìn xa xăm, trông chờ vào một điều gì đó mơ hồ sẽ đến và thay đổi hiện tại, nhưng cuối cùng là thất vọng. Cảm giác 'buồn trông' này mang trong nó sự lo âu, sự lạ lùng hấp dẫn của những điều xa xôi, cũng như nỗi sợ hãi lớn lao của một người con gái lần đầu bước vào cuộc sống đầy thách thức. Sự kết hợp giữa điệp ngữ và hình ảnh đằng sau các từ láy đã mô tả nỗi buồn với nhiều cường độ khác nhau, trào dâng như những làn sóng tư tưởng. Điệp ngữ này tạo ra những âm thanh u ám, man mác, diễn tả nỗi buồn sâu sắc, không lối thoát, không biên giới. 'Buồn trông' trở thành bản giao hưởng của đoạn thơ, cũng như của tâm trạng. Với một gam màu nhạt và lạnh, Nguyễn Du đã vẽ nên bức tranh tâm trạng đầy cảm động và đặc biệt. Khúc ca này kết thúc với những dư âm của biển cả, 'sóng lòng', 'sóng đời' với những tiếng gầm gào của hiểm nguy, như muốn đẩy, nhấn chìm người con gái cô đơn, tội nghiệp trên chiếc ghế đời mong manh. Lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất để rồi bị lừa gạt và bước vào cuộc sống 'thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần'. Để thể hiện tâm trạng phức tạp khi mỗi nỗi buồn ôm lấy ba nỗi buồn: buồn về người yêu, buồn về cha mẹ và buồn về chính bản thân mình, Nguyễn Du đã chọn cách thể hiện 'tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này' một cách độc đáo, tạo nên đoạn thơ tuyệt vời với phong cách tả cảnh kết hợp với ngụ tình.
Tóm lại, Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh phong phú về ngoại cảnh và tâm cảnh, mô tả nỗi buồn, nỗi sợ hãi mà Kiều đang trải qua, dự báo những sóng gió mạnh mẽ mà nàng sẽ trải qua trong mười lăm năm lưu lạc 'thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần'. Đoạn thơ này có giá trị văn học sâu sắc, đồng thời thể hiện lòng nhân ái, sự chia sẻ của Nguyễn Du với nỗi đau của Thúy Kiều.