Văn tế các loại chúng sinh còn được gọi là Văn chiêu hồn hoặc Văn tế chiêu hồn, là một tác phẩm văn tế viết bằng chữ Nôm vào đầu thế kỷ 19. Đây được coi là một trong những tác phẩm tiêu biểu của đại thi hào Nguyễn Du.
Giới thiệu
Văn tế các loại chúng sinh chưa xác định được thời điểm sáng tác chính xác. Theo tài liệu của Đàm Quang Thiện, dẫn lại từ ông Trần Thanh Mại trên Đông Dương tuần báo năm 1939, Nguyễn Du đã viết bài văn này sau một đợt dịch bệnh tàn khốc khiến hàng triệu người chết, khiến không khí tang tóc bao trùm đất nước, và các chùa đều tổ chức lễ cầu siêu cho linh hồn. Ngược lại, Hoàng Xuân Hãn cho rằng Nguyễn Du có thể đã viết tác phẩm này trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình.
Theo Từ điển văn học (bộ mới), người đầu tiên phát hiện bản văn tại chùa Diệc ở thành phố Vinh là GS. Lê Thước. Bản khắc ván cổ nhất là của nhà sư Chính Đại vào năm 1895 (gọi là bản Chính Đại), được lưu giữ tại chùa Hưng Phúc, xã Xuân Lôi, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh. Dựa trên hai bản này, Hoàng Xuân Hãn đã tiến hành khảo chứng, hiệu đính và công bố một bản văn khác có độ tin cậy cao hơn...
Khía cạnh cuộc đời tác giả
Trong phần mở đầu của Thơ chữ Hán Nguyễn Du, có đoạn viết:
- Cuộc sống đầy gian truân của Nguyễn Du từ năm 1786 đến 1795 được thể hiện rõ trong Thanh Hiên thi tập. Trong suốt một thập kỷ đó, ông đã phải sống cảnh nay đây mai đó, chật vật với cuộc sống nghèo nàn, không tiền chữa bệnh, nhiều lần ước ao trở về quê ở Hà Tĩnh nhưng không có nhà ở, anh em mỗi người một phương... Khi ông cuối cùng trở về, đã qua hơn ba mươi tuổi, tóc bạc, bệnh tật liên miên, có lúc ốm đau nhiều tháng chỉ nằm chờ chết, trong nhà cửa vắng lặng... Đến khi ông ra làm quan dưới triều Nguyễn, gia phả ghi nhận: Dù đã đạt chức vụ á khanh, ông vẫn giữ được sự thanh tao giản dị như một học trò nghèo. Trong Nam trung tạp ngâm, có ít nhất hai bài thơ phản ánh cảnh gia đình đói khổ, khuôn mặt xanh xao như rau...
- Tất cả những chi tiết này lý giải vì sao mặc dù Nguyễn Du thuộc tầng lớp trên nhưng trong thơ của ông lại thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với những người thuộc tầng lớp thấp hơn... Điều này rõ ràng trong bài Văn tế chiêu hồn.
Chủ đề và cấu trúc
Bài văn 'Văn tế thập loại chúng sinh' là một tác phẩm khấn tế, miêu tả xã hội hồn ma với nỗi đau đớn tột cùng. Đây là một cái nhìn trái ngược của thế giới trần tục, nhưng khác biệt ở chỗ không phân biệt giàu nghèo, sang hèn. Tất cả chúng sinh đều chịu đựng sự đày đọa, oan ức và cô đơn, khiến nhà thơ cảm thấy xót thương cho mọi số phận...
Tác phẩm được viết theo thể thơ song thất lục bát, gồm 184 câu chữ Nôm. Theo Đặng Thị Hảo, bài văn có thể được chia thành bốn phần chính
- Phần một (20 câu): miêu tả một chiều thu tháng Bảy mưa phùn buồn bã, khiến nhà thơ cảm thấy thương xót các chúng sinh đang lạc lỏng, cô đơn nơi cõi âm và lập đàn cầu siêu cho họ...
- Phần hai (116 câu): trình bày tên gọi và nguyên nhân tử vong của mười loại hồn ma.
- Phần ba (20 câu): mô tả cảnh sống đau thương của các hồn ma.
- Phần cuối (28 câu): lời cầu xin sự giúp đỡ của Phật pháp để các hồn ma được giải thoát. Cuối cùng là lời mời các hồn ma đến nhận lễ cúng và lên đàng thăng thiên...
Phân tích nội dung
Các nhà nghiên cứu văn học như Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ, Thạch Trung Giả, Xuân Diệu, Đặng Thị Hảo, Lê Thước... đều nhận định rằng Nguyễn Du là người có trái tim rộng lớn, chứa đựng tình thương nhân loại sâu sắc, và hoàn cảnh xã hội thời Lê mạt chính là động lực để hình thành nên tác phẩm này...
Trích dẫn thêm một số quan điểm từ:
- Phạm Thế Ngũ:
- Với tác phẩm này, chúng ta thấy Nguyễn Du sở hữu một khả năng tưởng tượng phi thường kết hợp với lòng đồng cảm vô hạn. Ông khắc họa những cảnh chết chóc, đau thương với sự miêu tả thảm thiết và cảm động. Những hình ảnh của cảnh loạn lạc, bệnh dịch, nạn đói, và cái chết do chiến tranh phong kiến, bão lũ, tạo nên nỗi ám ảnh thường xuyên trong thời kỳ Lê mạt. Chính những cảnh đời khổ cực này đã trở thành nguồn cảm hứng cho bài Chiêu hồn ca, khẳng định Nguyễn Du là một thi sĩ vĩ đại của nỗi khổ đau và tình thương.
- Nhà thơ Xuân Diệu:
- Trong lịch sử thơ ca Việt Nam, có một tác phẩm độc đáo và gần như duy nhất, nói về những người đã khuất, về cái chết từ nhiều góc độ khác nhau, mà chưa có bài thơ nào tập trung vào số phận các hồn ma như vậy. Đây thực sự là một tác phẩm bao trùm rộng rãi, không chỉ với những người đã chết mà còn với toàn xã hội sống. Nguyễn Du không thể lý giải đầy đủ sự khổ cực của xã hội thời ấy, nhưng bài thơ như một tiếng kêu từ bóng tối, phơi bày những đau khổ về đói nghèo, bệnh tật, chiến tranh phong kiến, và những nỗi oan ức của người dân. Trái tim rộng lớn của Nguyễn Du chứa đựng tình thương bao la, đặc biệt là dành cho những người chịu đựng cực khổ, đói rét, từ nạn nhân bị áp bức, người hầu, đến những trẻ em và người bất hạnh.
- Nhà nghiên cứu Đinh Quang Tốn:
- Cùng với Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh là một tác phẩm văn Nôm xuất sắc, đạt đến đỉnh cao về tư tưởng và nghệ thuật. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nhắc đến áng văn này khi nói về nỗi đau mất nước và nỗi buồn của tổ tiên:
- Ông cha xưa đã từng đấm nát tay trước cánh cửa cuộc đời
- Cửa vẫn khép chặt, cuộc đời im lìm
- Các pho tượng chùa Tây Phương không biết đáp lời
- Toàn dân tộc đói nghèo trong cảnh cơ hàn
- “Văn chiêu hồn” từng ngấm từng giọt mưa...
- (Tổ quốc có bao giờ đẹp như vậy không?)
- Tấm lòng nhân ái của Nguyễn Du rõ ràng khi ông nhắc đến mười loại người trong bài chiêu hồn. Đây là một tác phẩm độc đáo, hoàn hảo và duy nhất trong lịch sử văn học dân tộc về chủ đề này...
- Trương Chính:
- Trong Văn tế chiêu hồn, Nguyễn Du đã khắc họa những hình ảnh đau thương của thời đại ông. Dù có một số người thuộc tầng lớp trên, phần lớn là những người thuộc tầng lớp thấp. Đối với tầng lớp trên, lòng thương của ông dành cho những người 'chân yếu tay mềm', bị đẩy vào cảnh đời bơ vơ như chiếc lá trôi dạt. Còn tầng lớp dưới, bài thơ phản ánh đủ mọi số phận, từ học trò nghèo khổ không có thuốc men chữa trị, đến những trẻ em sơ sinh không được chăm sóc và phải chết yểu. Đọc bài thơ, có thể những cô hồn không tìm được sự an ủi, nhưng chúng ta càng cảm thấy căm phẫn với xã hội nơi mà đa số là những người thất cơ lỡ vận...
Phương diện nghệ thuật
Mặc dù là một bài văn khấn tế với yếu tố tôn giáo trong văn học Việt Nam, tác phẩm không theo hình thức văn tế biền ngẫu thường gặp, cũng không viết theo văn xuôi như Thập giới cô hồn quốc ngữ văn của vua Lê Thánh Tông. Thay vào đó, Nguyễn Du chọn thể loại song thất lục bát, mang đến vần điệu linh hoạt và truyền cảm, từ đó gợi dậy sự đồng cảm từ người đọc và người nghe. Trong khi bài văn của vua Lê có phần nặng nề và giáo huấn, thì tác phẩm của Nguyễn Du đầy ắp tình yêu thương và sự cảm thông. Ngoài một số phương ngữ và điển tích Phật giáo ít quen thuộc, bài văn này vẫn dễ hiểu và cảm nhận nhờ vào sự biến hóa linh hoạt của nhịp câu song thất. Tác phẩm còn được khen ngợi vì là bài thơ song thất lục bát sử dụng thủ pháp tiểu đối một cách sáng tạo và đặc sắc.
Chú giải
Tài liệu tham khảo
- [1] Nguyễn Du và tác phẩm Văn tế thập loại chúng sinh.
Nguyễn Du | |
---|---|
Tác phẩm chính | Truyện Kiều • Thanh Hiên thi tập • Nam trung tạp ngâm • Bắc hành tạp lục |
Các thi phẩm tiêu biểu | Văn chiêu hồn • Điếu La Thành ca giả • Độc Tiểu Thanh ký • Long thành cầm giả ca • Thái Bình mại ca giả • Trở binh hành • Sở kiến hành |
Danh nhân văn hóa · Nhà thơ · Nhà văn
Nguyễn Du ở Wikiquote |