Văn-thù-sư-lợi | |||
Mañjuśrī, Nhà Pala, Ấn Độ, thế kỷ 9. | |||
Tên tiếng Trung | |||
---|---|---|---|
Tiếng Trung | 文殊 | ||
| |||
Tên tiếng Trung thay thế | |||
Phồn thể | 文殊師利 | ||
Giản thể | 文殊师利 | ||
| |||
Tên tiếng Trung thay thế thứ 2 | |||
Phồn thể | 文殊師利菩薩 | ||
Giản thể | 文殊师利菩萨 | ||
Nghĩa đen | Manjusri Bodhisattva | ||
| |||
Tên Tây Tạng | |||
Chữ Tạng | འཇམ་དཔལ་དབྱངས། | ||
| |||
Tên tiếng Việt | |||
Chữ Quốc ngữ | Văn-thù-sư-lợi | ||
Tên tiếng Thái | |||
Tiếng Thái | พระมัญชุศรีโพธิสัตว์ | ||
Tên tiếng Triều Tiên | |||
Hangul | 문수보살 | ||
Hanja | 文殊師利 | ||
Tên tiếng Mông Cổ | |||
Cyrillic tiếng Mông Cổ | Зөөлөн эгшигт | ||
Chữ Mông Cổ | ᠵᠦᠭᠡᠯᠡᠨ ᠡᠭᠰᠢᠭᠲᠦ | ||
Tên tiếng Nhật | |||
Kanji | 文殊, 文殊師利 | ||
| |||
Tên tiếng Tamil | |||
Tamil | மஞ்சுசிறீ | ||
Tên tiếng Phạn | |||
Phạn | Mañjuśrī | ||
Tên tiếng Bengal | |||
Bengal | মঞ্জুশ্রী | ||
Tên tiếng Nepal | |||
Nepal | मञ्जुश्री |
Văn-thù-sư-lợi (zh. 文殊師利, sa. mañjuśrī) được gọi tắt là Văn-thù, có nghĩa là Diệu Đức (zh. 妙德), Diệu Cát Tường (zh. 妙吉祥), cũng thường được gọi là Diệu Âm (zh. 妙音), dịch từ tiếng Phạn là Mañjughoṣa, là một vị Bồ Tát biểu tượng cho trí huệ, là một trong những vị Bồ Tát quan trọng của Phật giáo. Văn-thù được đề cập lần đầu trong tác phẩm Văn-thù-sư-lợi căn bản nghi quỹ (sa. ārya-mañjuśrī-mūlakalpa) vào thế kỷ 4. Tranh tượng của Văn-thù thường thể hiện với lưỡi kiếm và kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thường được vẽ có đầu ngang. Đây được xem là biểu tượng cho trí huệ chiếu sáng ban đêm của Vô minh. Sau này, chúng ta thường thấy Văn-thù cưỡi một con sư tử.
Lịch sử
Trong Phật giáo Tây Tạng, những vị học giả vượt trội như Tông-khách-ba thường được xem là hiện thân của Văn-thù (Châu-cô). Dưới danh hiệu Diệu Âm (zh. 妙音), 'Người với tiếng nói êm dịu', Văn-thù Bồ Tát thường được ca ngợi trước khi các hành giả nghiên cứu các kinh điển, đặc biệt là kinh điển thuộc hệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa và học thuyết của Trung quán tông. Văn-thù là biểu tượng cho kinh nghiệm giác ngộ, đạt được thông qua tri thức.
Văn-thù cũng được biểu hiện dưới dạng một Thần thể (sa. iṣṭadevatā, sādhita, bo. yidam) phẫn nộ, có tên gọi là Diêm-mạn-đức-ca – 'Người chiến thắng tử thần' (sa. yamāntaka), hình dạng của Thần thể này là vị thần mang đầu bò. Đây là Thần thể quan trọng của phái Cách-lỗ ở Tây Tạng.
Theo truyền thống Phật giáo Trung Quốc, Văn-thù được Phật Thích-ca trực tiếp giao phó nhiệm vụ truyền bá Phật pháp tại đây, và Ngũ Đài sơn là nơi Bồ Tát thuyết giảng. Do đó, Ngũ Đài sơn cũng được coi là điểm tâm của Văn-thù (xem Tứ đại danh sơn). Một lời giảng khác cho rằng, Bồ Tát đã từng hiện diện tại Trung Quốc vào thế kỷ 1, thời Đế Minh Hán. Câu niệm danh hiệu của vị Bồ Tát này là: 'Nam mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát'.
Xuất hiện trong Tây du ký
- Hồi 23: Tam Tạng không bỏ lỡ đạo, tứ thánh thử lòng thiền
- Hồi 39:
- Hồi 77: