Bài mẫu văn lớp 12: Nghị luận về Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng là tài liệu quan trọng mà chúng tôi muốn giới thiệu đến toàn thể thầy cô và các bạn học sinh ngày hôm nay.
Hy vọng rằng với tài liệu này, các bạn học sinh lớp 12 sẽ phát triển khả năng viết văn nghị luận về xã hội cũng như sẽ được trang bị thêm kỹ năng cần thiết cho kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia sắp tới. Dưới đây là phân tích chi tiết và 2 bài mẫu văn nghị luận về Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng, mời các bạn tham khảo.
Phân tích chi tiết
I. Khởi đầu:
- Bắt đầu vấn đề nghị luận: Trích dẫn quan điểm của Nguyễn Khải 'Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật chủ yếu hiện diện ở giá trị tư duy của nó'.
II. Nội dung chính:
* Giải thích quan điểm
- 'Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật chủ yếu hiện diện ở giá trị tư duy của nó'
+ Để được coi là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị, trước hết phải đề xuất một ý tưởng mới lạ. Một nhà văn tài năng cần có những khám phá riêng về cuộc sống thông qua một tâm trạng, một tình huống, hoặc một cảnh quan của một nhân vật. Bởi cuối cùng, mục đích cao quý nhất của văn chương nghệ thuật là phản ánh con người và phục vụ cuộc sống con người.
=> Khi sáng tác, nhà văn không thể không thể hiện quan điểm của mình, quan điểm riêng về các vấn đề xã hội.
- Bản chất của lao động nghệ thuật là sự sáng tạo:
+ Nghề văn là nghề sáng tạo, do đó, nhiệm vụ khó khăn nhưng cũng là vinh quang của nhà văn là phải khám phá, tạo ra một hệ thống tư tưởng cá nhân.
+ Ý tưởng sẽ là yếu tố quan trọng hình thành phong cách nghệ thuật, dấu ấn đặc biệt của nhà văn.
- Tư duy của một nhà văn 'là những tư duy đã được vực dậy từ các tầng lớp của tâm trí, không chỉ là những ý niệm khô khan trên tờ giấy':
+ Theo Các Mác, quy luật của văn học là quy luật chung của cái đẹp, là quy luật của tình cảm. → Tình cảm chính là nguồn cảm hứng sâu xa của cái đẹp.
+ Mỗi tác phẩm nghệ thuật đích thực phải dẫn dắt con người đến cái đẹp thông qua tình cảm của nhà văn
+ Không phải ngẫu nhiên nhiều nhà thơ đã nói về sức sống của cảm xúc.
+ Ngô Thì Nhậm đã kêu gọi các thi sĩ “Hãy làm dậy sóng tâm hồn cho cây bút có hồn”.
+ Trong cuộc thảo luận về thơ, Xuân Diệu cũng đã phát biểu: “Thơ hay, lời thơ chín đỏ trong cảm xúc”.
=> Dù tư tưởng của nhà văn có độc đáo, mới lạ đến đâu đi nữa nhưng nếu không được thể hiện qua trái tim, thì tư tưởng đó chỉ còn là một ý niệm trên giấy mà thôi.
- 'Tình cảm của người viết là bước đầu tiên và cũng là bước cuối cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật.”
+ Tác phẩm văn học là tiếng nói của tâm hồn, là biểu hiện của tình cảm cá nhân của người nghệ sĩ trước cuộc đời.
+ Nhà văn sáng tạo tác phẩm văn học khi cảm thấy bị kích động bởi cuộc sống, khi cảm thấy trái tim mình đập mạnh mẽ.
+ Tình cảm vẫn là bước cuối cùng trong quá trình tạo ra một tác phẩm nghệ thuật của nhà văn.
=> Ở đây muốn nói rằng người đọc tiếp cận với tác phẩm không chỉ bằng lý trí mà còn bằng cầu nối từ trái tim đến trái tim.
+ Những ý tưởng sâu sắc nhất, lòng trung thành nhất mà nhà văn đặt vào tác phẩm sẽ thấm vào lòng người đọc dưới hình thức của cảm xúc.
+ Giá trị của một tác phẩm cuối cùng phụ thuộc vào sự chân thành của tình cảm của nhà văn, có khả năng gợi cảm xúc sâu sắc trong tâm hồn người đọc hay không.
* Chứng minh ý kiến (kết nối với bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu)
- Nội dung các tác phẩm của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám đều tôn vinh mong muốn được hiểu biết sâu sắc về cuộc sống.
-> Đó là một tư duy nhân văn độc đáo và mạnh mẽ của Xuân Diệu khi so với nhiều nhà thơ khác đang sống trong tâm trạng chán nản, tuyệt vọng, lạc vào quá khứ hoàng kim hoặc trong mơ ước, Xuân Diệu vẫn nhìn cuộc sống qua góc nhìn tươi mới, và mong muốn “Kết nối gốc để hút mùa dưới đất”.
- Tư duy nhân văn mạnh mẽ đó được thể hiện mạnh mẽ, đầy cảm xúc trong bài thơ Vội vàng:
+ Giới thiệu tổng quan về bài thơ Vội vàng.
+ Phân tích những khám phá của Xuân Diệu về một thiên đường trên trái đất (chú ý tới những hình ảnh, thông điệp…)
(Ghi chú: Có thể trích dẫn từ thơ Tố Hữu để làm rõ nhận định)
- Trình bày quan điểm của em về quan điểm của Nguyễn Khải.
Bài mẫu số 01
Cái gì tạo nên giá trị của một tác phẩm nghệ thuật? Tư tưởng của người viết hay tình cảm của nghệ sĩ? Câu hỏi này đã khiến mọi người bàn cãi, không chỉ chúng ta mà còn cả giới nghệ sĩ. Đã có nhiều ý kiến và lý giải về vấn đề này. Tuy nhiên, ý kiến của nhà văn Nguyễn Khải dưới đây, theo tôi, là một ý kiến đánh giá đầy đủ, chính xác và đáng chú ý: 'Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết nằm ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng tư tưởng ấy phải được vun đắp từ cung bậc của tình cảm, không phải là một ý nghĩa cứng nhắc trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là bước khởi đầu và là bước kết thúc trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật'.
Là một nhà văn đã trải qua nhiều gian khổ với nghề viết, đã trải qua và chịu đựng những quy luật khắc nghiệt của văn chương, Nguyễn Khải hiểu rõ những yêu cầu khắt khe của nghệ thuật. Ông nhận thức sâu sắc rằng giá trị của một tác phẩm nghệ thuật đầu tiên nằm ở giá trị tư tưởng. Nhà văn phải là người có tư tưởng. Nhưng qua những trải nghiệm của mình, ông cũng hiểu rằng nghệ thuật không chỉ đơn thuần là tư tưởng mà còn là tư tưởng được thể hiện qua cảm xúc. Ý kiến của Nguyễn Khải đã khẳng định mối quan hệ gắn bó, không thể tách rời giữa tư tưởng và cảm xúc của nhà văn.
“Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật đầu tiên nằm ở giá trị tư tưởng của nó”. Câu này không thể phủ nhận như một chân lý. Một tác phẩm nghệ thuật có giá trị, trước hết phải mang lại một tư tưởng mới. Một nhà văn xuất sắc phải là một nhà tư tưởng. Nghĩa là ông phải có những phát hiện mới về chân lý đời sống, có triết lý riêng về nhân sinh. Văn chương nghệ thuật cao cả nhất là phản ánh con người và phục vụ đời sống con người.
Văn học là một biểu hiện tinh thần; do đó, khi viết, nhà văn không thể không phản ánh tư tưởng, quan điểm riêng của mình về cuộc sống. Làm thế nào văn học có thể thực hiện sứ mệnh của mình là bồi đắp, làm giàu cuộc sống tinh thần của con người, nếu như tác giả không truyền đạt được tư tưởng nào đó về cuộc sống vào tác phẩm của mình?
Ngoài ra, bản chất của lao động nghệ thuật là sáng tạo. Văn học phải là nghề sáng tạo. Tôi tin rằng sáng tạo khó khăn nhất, nhưng cũng là vinh quang nhất của người nghệ sĩ, là khám phá, phát minh ra một hệ thống tư tưởng riêng. Văn học không chấp nhận những sản phẩm nghệ thuật nhàm chán, quen thuộc, viết dưới ánh sáng của một khuôn mẫu tư tưởng nào đó. Nếu như vậy, văn chương sẽ tẻ nhạt biết bao! Một khi bạn đề xuất những tư tưởng sâu sắc về cuộc sống, những tư tưởng đó sẽ quyết định đến sự sáng tạo hình thức của tác phẩm.
Chưa kể, ở những nhà văn lớn, tư tưởng là yếu tố cốt lõi hình thành phong cách nghệ thuật, gương mặt riêng, dấu ấn riêng của nhà văn trong đời sống văn học rộng lớn, đa dạng này. Có thể khẳng định rằng, tư tưởng là phẩm chất của một nhà nghệ sĩ lớn.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Nguyễn Khải, tư tưởng của nhà văn không chỉ là ý niệm “đặt ở nguyên trạng trên giấy tờ”, mà là ý niệm đã được vận động tại những trạng thái cảm xúc đa dạng. Vấn đề là tại sao tư tưởng lại cần phải được truyền đạt qua cảm xúc của tác giả và làm sao tư tưởng có thể là bước khởi đầu và kết thúc trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật?
Có lẽ, chúng ta nên bắt đầu từ quy luật lớn của văn học, nghệ thuật nói chung. Các triết gia đã nhấn mạnh rằng: Quy luật của văn học chính là quy luật của cái đẹp. Một cách cụ thể hơn, họ xác định rằng quy luật của cái đẹp chính là quy luật của cảm xúc. Do đó, cảm xúc chính là nguồn gốc sâu xa của cái đẹp. Mỗi tác phẩm nghệ thuật thực sự phải hướng tới cái đẹp thông qua tình cảm của tác giả. Tác phẩm của một người phải bộc lộ, sự tinh tế cảm xúc của chính họ. Không phải là ngẫu nhiên khi thảo luận về thơ, nhiều nhà văn, nhiều nhà phê bình vẫn khẳng định vai trò của cảm xúc đối với thơ.
Ngô Thì Nhậm đã kêu gọi các nhà thơ: “Hãy làm cho tinh thần thơ bừng tỉnh để bút có thể mạnh mẽ”, và Muyxê cũng đã nhắc nhở các nhà thơ rằng: “Hãy đập vào tim tôi, Thiên tài ẩn chứa ở đó” Dù tư tưởng của một nhà văn có giá trị đến đâu, độc đáo đến đâu, nó cũng chỉ là một hình thức trống rỗng trên giấy tờ nếu không được hơi thở, cảm xúc của họ thổi bùng. Nếu chỉ có tư tưởng mà không có gì khác, thì không thể tạo ra một tác phẩm nghệ thuật thực sự. Tư tưởng của họ phải được thể hiện qua cảm xúc. Cảm xúc lạnh lùng, phù phiếm, tình cảm thoáng qua, không quan trọng, kết quả là những tư tưởng ấy dù tốt đến đâu cũng chỉ là “đặt ở nguyên trạng”, không có hồn, không cảm xúc trên giấy tờ.
Các sáng tạo nghệ thuật chân chính tuyệt đối không chỉ là sự diễn giải đơn giản cho một tư tưởng này hay tư tưởng khác, dù đó có thể là một tư tưởng tuyệt vời (Theo Khrapchenco). Tư tưởng của một nhà văn không khô khan, cứng nhắc, tư tưởng của một nhà văn là tư tưởng nghệ thuật, là cảm xúc, là “sự nhiệt tình”, là “đam mê”, là sự kết hợp của tất cả nhiệt tình (Biêlinxki)
Có thể nói rằng tình cảm của người viết chính là bước đầu tiên trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật. Điều này có nguồn gốc từ đặc trưng cơ bản của văn học. Văn học là tiếng nói của tâm hồn, của cá nhân người nghệ sĩ trước cuộc sống. Làm sao một nhà văn có thể sáng tạo ra tác phẩm – sản phẩm của thế giới tinh thần của mình nếu trái tim của họ lạnh như đá trước cuộc sống? Nhà văn chỉ có thể sáng tạo nếu họ cảm thấy bị cuốn hút bởi cuộc sống con người, cảm thấy trái tim họ bật nhảy trong lòng ngực. Nhiều nghệ sĩ gọi đó là “phút chớp mắt của cảm hứng” hoặc “kích thích của sự sáng tạo”, và điều này chính là lý do.
Không hề là không có lý do khi Lê Quý Đôn nói: “Thơ chính là dòng suối bắt nguồn từ tâm hồn ta”. Tố Hữu cũng chia sẻ về quá trình sáng tạo thơ của mình. Mỗi khi lòng băn khoăn, không thể giữ nguyên, ông ấy lại viết thơ. Còn Nên Krap, khi trò chuyện với bạn, chia sẻ rằng, mọi gì khiến ông đau khổ, rạo rực, say mê, ông đều thể hiện qua thơ. Ta bỗng hiểu vì sao trong một lá thư gửi tới một nhà thơ trẻ, để trả lời câu hỏi liệu có nên viết thơ hay không, Ankle đã có một lời khuyên chân thành rằng, hãy đối diện với lòng mình vào đêm khuya tĩnh lặng, để tự trả lời câu hỏi: Liệu ta có thể không viết được không? Nếu không viết, liệu ta có chết không? Chỉ khi nào trả lời được câu hỏi ấy, hãy viết. Điều đó chứng tỏ rằng, tình cảm mãnh liệt – chính là đặc điểm riêng của người nghệ sĩ, là bước đầu tiên của quá trình sáng tạo nghệ thuật.
Ngoài ra, tình cảm cũng là bước cuối cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm của nhà văn. Người đọc không tiếp cận với tác phẩm thông qua lý trí mà thông qua sự kết nối từ trái tim đến trái tim. Những ý niệm sâu sắc nhất, tận tâm nhất mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm sẽ thấm vào tâm hồn của độc giả dưới hình dạng của cảm xúc. Mỗi khi đọc một bài văn, một bài thơ, trước khi hiểu ý nghĩa của từ ngữ, hình ảnh,… thì tình cảm đã chiếm lấy tâm hồn từ khi nào, lòng ta chợt reo lên theo những dư âm của tâm hồn của người nghệ sĩ, cũng chợt thấy yêu ghét theo những yêu ghét của người viết.
Một tác phẩm có hay không cuối cùng cũng phụ thuộc vào sự chân thực của tình cảm của người viết, khả năng kích thích tình cảm của người đọc. Tư duy nghệ thuật không phải là một khái niệm cứng nhắc, nó là những khám phá, những triết lý riêng của nhà văn, một triết lý về cuộc sống đầy cảm xúc, thấm nhuần trong tâm huyết của người nghệ sĩ.
Nhìn vào thực tế văn học, tôi bỗng hiểu vì sao có những nhà văn suốt đời không tạo ra một tác phẩm thực sự có giá trị và phải chịu đựng sự thất bại của nghề văn. Và vì sao lại có những nghệ sĩ lớn như Xuân Diệu vẫn sống mãi theo thời gian.
Dù thời gian vẫn trôi đi không ngừng, qua bao sóng gió cuộc sống, bao thăng trầm của lịch sử, công việc âm thầm của nó vẫn là làm sạch, xoá bỏ mọi thứ nhưng những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật vẫn sống mãi, trong đó có những bài thơ của Xuân Diệu.
Xuân Diệu là một nhà thơ lớn. Và điều tạo nên dáng vóc của nhà thơ lớn ấy là gì, nếu không phải là tư tưởng của thi sĩ? Tôi không tin rằng một nhà văn có thể gây dựng tên tuổi. Không, một nhà văn lớn, có những khám phá riêng về cuộc sống. Xuân Diệu đã bước đi đúng con đường mà những người nghệ sĩ lớn thường đi vì ông đã đề xuất cho cuộc sống này một tư tưởng, một quan niệm của riêng ông. Nếu có thể tóm gọn tất cả tư tưởng ấy, ta có thể gọi nó là “mong muốn kết nối với cuộc sống”. Tư tưởng ấy đã giúp sự nghiệp thơ văn của Xuân Diệu trụ vững với thời gian.
Giữa những nhà thơ khác đang chìm trong tuyệt vọng, lạc vào quá khứ hoa lệ hoặc ẩn nấp trên những vì tinh tú lạc lõng, thì thi sĩ ấy với đôi mắt biếc luôn mở to nhìn cuộc sống với sự quyến luyến, say mê, khao khát được sống mãi như một cây “xanh vươn mãi trong vườn đời, chân thành rễ để hấp thụ mùa dưới đất”, được luôn luôn ôm cõi đời này trong vòng tay say mê. Đôi mắt “xanh non”, đôi mắt “sáng suốt” đã phát hiện ra một thiên đường tại thế gian này, nơi mà các thi sĩ khác như Thế Lữ, Chế Lan Viên,… có lúc chỉ muốn tránh xa. Xuân Diệu viết thơ, chỉ muốn thả những tinh túy sôi nổi, tinh tế của mình tới mọi tâm hồn bạn bè, ở mọi nơi, của hôm nay và mãi mãi về sau với một tấm lòng “mong muốn kết nối với cuộc sống”.
Tư tưởng nhân văn độc đáo, mạnh mẽ ấy không phải là nguyên nhân tạo ra những vần thơ lung linh của Xuân Diệu, không phải là nguồn sáng tạo cho những viên ngọc trai tròn đầy ấy phải không? “Mong muốn kết nối với cuộc sống” đã giúp Xuân Diệu viết ra những bài thơ tình yêu chân thành, với cái nhìn cao đẹp về thế giới để ông lưu lại dấu ấn với thời gian như một “ông hoàng của thơ tình” – danh hiệu mà biết bao người mơ ước.
Nhưng Xuân Diệu có thể gợn sóng trong lòng ta với những vần thơ ấy, nếu tư tưởng của ông là một khái niệm đã chết, “đọng mãi trên trang giấy?”. Không, tư tưởng ấy vẫn tồn tại với cõi đời này vì nó đã được “rung lên ở những cung bậc của tình cảm”, là điều quý giá tinh túy từ con người và tâm hồn, thế giới cảm xúc của thi sĩ Xuân Diệu. Ngay cái tên của tư tưởng nghệ thuật ấy đã chứa đựng biết bao cảm xúc. Nó bắt nguồn từ nhịp đập mãnh liệt của trái tim Xuân Diệu – trái tim muốn sống với cõi đời, cõi người này mãi mãi. Đó là khao khát cháy bỏng, là say mê vô hạn hay là toàn bộ linh hồn tinh thần của nghệ sĩ? Chỉ biết rằng, mỗi vần thơ của Xuân Diệu như được chắt ra từ lòng yêu đời, yêu cuộc sống nồng nhiệt.
Tư tưởng nhân văn độc đáo ấy không phải do Xuân Diệu sáng tạo ra, sau đó dùng tài năng của mình, truyền đạt lên bản thể ấy. Không, nguồn cội sâu xa của ý tưởng cao đẹp ấy chính là tình cảm, nỗi sợ cô đơn. Nỗi lo âu đã ám ảnh, đã bám riết tâm hồn cậu bé Xuân Diệu – người từ khi còn nhỏ đã phải trải qua sự cô đơn của gia đình. Tâm hồn non nớt, thiếu vắng tình thương mẹ, luôn khao khát sự đồng cảm, khao khát được mọi người hiểu. Xuân Diệu tìm đến thơ như một điều tự nhiên không thể thay đổi được vì với ông, thơ là chiếc cầu linh hoạt nhất kết nối trái tim với trái tim. Nhà thơ luôn khao khát trở thành nguồn cảm hứng vàng son bay khắp mọi nơi, tràn ngập không gian. Nỗi sợ cô đơn lan tỏa qua từng bài thơ, ngay cả trong những niềm hạnh phúc lên đến đỉnh điểm cũng vẫn còn những điểm lo âu.
“Trái tim hốc hác, lòng ta buốt lạnh
Như ngôi nhà không vách, bao phủ mưa gió”
Tôi luôn tự hỏi, nếu những bài thơ của Xuân Diệu không đầy ắp cảm xúc, niềm đam mê sâu đậm với cuộc sống thì liệu chúng có thể gợi rung lòng người như thế không? Những vần thơ như những viên ngọc được tinh chế từ sự hứng khởi mãnh liệt đến sự đam mê cuồng nhiệt của nghệ sĩ với cuộc sống này. Chúng giúp ông khám phá những điều tuyệt vời của tự nhiên trần thế:
“Ở đây có mật ong dày đặc trong tuần tháng,
Này đây, hoa lá của thôn quê xanh mát,
Ở đây, những cánh hoa bay phất phơ
Ở đây, giọt nước mắt ngọt ngào của tình yêu.”
Một thông điệp “ở đây” như là một làn sóng cuồn cuộn của niềm say mê cuộc sống, như là lời nhắc nhở mỗi người hãy trân trọng cuộc sống này như thế. Hãy sống trọn vẹn với cuộc đời, với mọi người bằng tất cả tâm hồn và hưởng thụ vẻ đẹp của cuộc sống này. Không cần phải đi xa, không cần phải mơ mộng về những vùng đất xa xôi. Thiên đường chính là đây, là cõi đất mà chúng ta yêu quý, gần gũi.
Xúc cảm luôn muốn tự do, luôn muốn nhảy múa trên trang giấy để phá bỏ, đập tan những ranh giới chặt chẽ của từ ngữ làm cho thế giới ý nghĩa phải đảo lộn:
“Muốn ôm gì
Hết cuộc sống đang bắt đầu bừng lên;
Muốn rũ mây, kèm gió lượn,
Muốn ngây ngất cùng cánh bướm trong tình yêu,
Và những nơi, và cây cỏ tỏa sáng,
Để thơm phức, để dày ắp ánh sáng,
Cho đầy đặn sắc màu của thời tươi,
Ơi xuân hồng, ta muốn ngậm vào lòng!”
Các động từ mạnh mẽ “rũ”, “ôm”, “ngây ngất”, “thắm” như muốn làm cho từng chữ trở nên sống động hơn. Cái áo từng đợt đã quá chật chội để chứa đựng những cảm xúc tươi mới, luôn phản ánh sự sống. Cảm xúc trào ra ngoài dòng chữ, thấm vào lòng đọc giả, thổi bùng ngọn lửa của tình yêu cuộc sống. Đó là điều khiến ta không thể không yêu thơ. Thơ, hay tiếng nói từ trái tim của nghệ sĩ, đã trở thành thơ? Bao nhiêu cảm xúc, say đắm đến mức mất ý thức đã được gói lại để biến thành một câu thơ độc đáo, đỉnh cao trong nghệ thuật thơ Việt Nam: “Ơi xuân hồng, ta muốn ngậm vào lòng!”
Câu thơ đó là âm thanh phát ra từ tận cùng tâm huyết của Xuân Diệu đối với cuộc sống này. Tư tưởng là nền móng của nhà văn. Tình cảm là nguồn sống cho tư tưởng đó trở thành hình thể. Có thể phủ nhận mối liên hệ chặt chẽ không thể tách rời đó sao? Tư tưởng của Xuân Diệu cũng vậy, nó đã tồn tại trong tình cảm, trong lòng nhiệt thành của nhà thơ. Mỗi câu thơ là một phần của tâm hồn, không phải là những chữ cái vô hồn, mà là toàn bộ cảm xúc của thi sĩ, luôn động đậy tâm hồn ta, thắp lên ngọn lửa của niềm đam mê sống. Mỗi câu, mỗi từ viết ra đều là máu thịt của nhà văn. Nếu không có cảm xúc đó, liệu người đọc có thể nhớ mãi câu thơ: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” - câu thơ được viết ra từ một con người đầy yêu đời, tràn đầy sức sống, nồng nhiệt?
Nếu thiếu đi “lòng khao khát giao cảm với đời” ấy, liệu có thể tạo ra một tác phẩm tuyệt vời như “Nguyệt cầm”, liệu Xuân Diệu có thể nghe thấy những rung động tinh tế, mơ màng, mong manh trong lòng con người và thế giới xung quanh để truyền vào những vần thơ ít lời nhiều ý sâu sắc nhưng vẫn đậm chất nghệ thuật? Tình cảm luôn là nguồn cảm hứng sâu xa của mọi sáng tạo nghệ thuật chân chính trên thế giới này.
Xuân Diệu đã so sánh bản thân mình như một chú chim hoạ mi “đến từ núi xa xôi”, ”rỉ rả hót rộn” khi bắt đầu buổi sáng, khi màn đêm buông xuống. Con chim hoạ mi ấy không mong rằng tiếng hót của mình sẽ làm cho hoa nở, nhưng nó cam kết rằng, đó phải là tiếng hót chân thành, sâu lắng đến nỗi vỡ cả cổ, đến nỗi đỏ mặt. Có lẽ vì tiếng hót đam mê đó đã đọng lại trên bầu trời thi ca Việt Nam một vị trí đặc biệt, càng nghe càng làm cho lòng người rung động, vang lên. Đúng vậy, toàn bộ sức sống của hồn thơ Xuân Diệu chính là ở đó, không gì khác ngoài việc biết hát bằng tất cả những cảm xúc mãnh liệt của mình, niềm “khao khát giao cảm với đời” ấy, trái tim cao hơn cả nhà thơ, cao hơn cả nghệ sĩ.
Một thời, sự quá mức đánh giá tư tưởng của nhà văn đã dẫn đến việc văn chương trở thành triết học, lý luận, mất đi vẻ đẹp tự nhiên. Tuy vai trò của tư tưởng trong nghệ thuật không thể phủ nhận, nhưng không nên quên đi bản chất của văn chương nghệ thuật, nơi tình cảm được gửi gắm và sống. Đó là bài học quan trọng đối với mọi nghệ sĩ chân chính.
Nhiều người đã than thở về sự mất đi của nghề văn. Nhưng liệu sự mất đi ấy có ở chỗ văn chương? Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật chủ yếu là ở giá trị tư tưởng. Nếu không có tư tưởng, tác phẩm chỉ là một thân xác không hồn. Nghệ thuật không chứa đựng những tác phẩm chỉ là lời nói của tư tưởng nhà văn. Ý kiến của Nguyễn Khải thực sự là niềm tin của những người trung thành với nghệ thuật văn chương.
Bài văn mẫu số 02
Bạch Cư Dị từng nói: “Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm là nguồn gốc của văn chương”. Đó là tư tưởng mà nhà văn muốn đặt vào tác phẩm, vì điều khác đối với mỗi nhà văn là giọng điệu riêng của họ. Tư tưởng là mầm mống trong tâm hồn nghệ sĩ, từ cuộc sống sẽ phát triển thành hình thức nghệ thuật đẹp và sôi động.
Là một nhà văn đã trải qua nhiều năm trong nghề, Nguyễn Khải hiểu rõ những yêu cầu khắt khe của nghệ thuật. Ông nhận thức rõ giá trị của một tác phẩm nghệ thuật nằm ở giá trị tư tưởng. Nhà văn cần phải có tư tưởng. Nhưng qua những kinh nghiệm, ông cũng nhận thấy nghệ thuật không chỉ là tư tưởng đơn thuần mà còn là tư tưởng được thấm nhuần trong tình cảm, được truyền tải bằng cảm xúc của nghệ sĩ. Ý kiến của Nguyễn Khải khẳng định sự liên kết không thể tách rời giữa tư tưởng và tình cảm của nhà văn.
“Giá trị thực sự của một tác phẩm nghệ thuật nằm ở giá trị tư tưởng mà nó mang lại”. Điều này là một sự thật không thể phủ nhận. Một tác phẩm nghệ thuật để được công nhận, đầu tiên phải có một ý tưởng sáng tạo. Một nhà văn chỉ có thể được coi là có tầm cỡ nếu ông ta là một nhà tư tưởng. Điều này có nghĩa là ông ta phải có những quan điểm độc đáo về cuộc sống, những triết lý riêng về nhân sinh. Văn học nghệ thuật là để phản ánh con người và phục vụ cuộc sống con người.
Văn học là biểu hiện của ý thức tinh thần; vì vậy, khi viết, nhà văn không thể không truyền đạt quan điểm cá nhân, quan điểm về cuộc sống của mình. Làm thế nào mà văn học có thể hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình, làm phong phú và giàu có tinh thần con người, nếu tác giả không đưa vào tác phẩm của mình một số suy nghĩ về cuộc sống?
Một khía cạnh khác của lao động nghệ thuật là sự sáng tạo. Nghệ sĩ văn học phải là những người sáng tạo. Tôi tin rằng sự sáng tạo khó nhất, nhưng cũng là vinh quang nhất của nghệ sĩ, là khám phá, phát minh ra một hệ thống tư tưởng riêng. Văn học không thể chấp nhận những sản phẩm nghệ thuật chung chung, quen thuộc, viết dưới ánh sáng của một khuôn mẫu tư tưởng nào đó. Nếu như thế, văn chương sẽ trở nên tầm thường! Không, “Văn chương chỉ chứa đựng những người biết khai phá, biết khám phá, biết kích thích những nguồn nước chưa từng chảy và sáng tạo ra những gì chưa từng có” (Nam Cao). Một khi bạn đã đưa ra những ý tưởng khám phá về cuộc sống, những ý tưởng đó sẽ thúc đẩy quá trình sáng tạo hình thức của tác phẩm.
Không chỉ vậy, tại các nhà văn lớn, tư tưởng là yếu tố quan trọng trong việc hình thành phong cách nghệ thuật, cá nhân và dấu ấn riêng của họ trong cuộc sống văn học rộng lớn và phức tạp này. Có thể khẳng định rằng, tư tưởng đó là phẩm chất cốt lõi của một nhà văn vĩ đại.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Nguyễn Khải, tư tưởng của nhà văn không chỉ là tư tưởng “nằm thẳng đơ trên trang giấy”, mà còn là tư tưởng đã được thấm nhuần trong tình cảm”. Vấn đề đặt ra là tại sao tư tưởng cần được truyền đạt bằng tình của người viết và tình của nhà văn sao lại là khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật”?
Có lẽ, hãy bắt đầu từ nguyên lý lớn nhất của văn học và nghệ thuật. Các nhà văn thường nhấn mạnh: Nguyên tắc cơ bản của văn học là nguyên tắc của cái đẹp. Một cách cụ thể hơn, họ khẳng định rằng nguyên tắc của cái đẹp là nguyên tắc của tình cảm. Vậy tình cảm chính là nguồn gốc sâu xa nhất của cái đẹp. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đích thực phải hướng con người tới cái đẹp thông qua tình cảm của nhà văn. Tác phẩm của anh phải thể hiện, phản ánh sự thăng hoa cảm xúc của chính anh. Không phải ngẫu nhiên khi nói về thơ, nhiều nhà văn, nhiều học giả luôn nhấn mạnh vai trò của tình cảm đối với thơ.
Ngô Thì Nhậm kêu gọi các nhà thơ: “Hãy làm cho linh hồn của bút máy phải rung động”, còn Muyxê nhắn nhủ các nhà thơ: “Hãy làm cho trái tim anh, Tài năng đang chờ đợi ở đó”. Tư tưởng của một nhà văn, dù có giá trị và độc đáo đến đâu, thì cũng chỉ là một xác chết trên giấy, nếu không được tình cảm thổi vào để làm sống lại. Nếu anh chỉ có tư tưởng mà thiếu cảm xúc, thì không thể tạo ra một tác phẩm nghệ thuật có giá trị. Tư tưởng của anh phải được thấm nhuần trong tình cảm. Cảm xúc là yếu tố quan trọng nhất, nếu thiếu sót hoặc mờ nhạt, thì dù tư tưởng có hay đến đâu cũng sẽ trở nên “chết chóc”, vô hồn trên trang giấy.
Những sáng tạo nghệ thuật thực sự không phải là việc minh họa cho một tư tưởng cụ thể nào đó, dù đó là ý tưởng hay nhất (Theo Khrapchenco). Tư tưởng của nhà văn không chỉ là khô khan, cứng nhắc; tư tưởng của nhà văn chính là tư tưởng nghệ thuật, là tình cảm, là “đam mê”, là “niềm say mê”, là tổng hòa của tất cả cảm xúc (Biêlinxki)
Có thể nói tình cảm của người viết là khâu đầu tiên trong quá trình sáng tạo tác phẩm nghệ thuật. Điều này phản ánh căn nguyên của văn học. Văn học là giọng nói của tâm hồn, của tình cảm cá nhân của nghệ sĩ trước cuộc sống. Làm thế nào mà nhà văn có thể viết ra tác phẩm – sản phẩm của thế giới tâm hồn của mình nếu tâm hồn trơ trẽn như đá trước cuộc đời? Nhà văn chỉ có thể sáng tạo nên tác phẩm khi cảm thấy xúc động trước cuộc sống con người, khi tiếng nói bên trong thúc đẩy lòng người mãnh liệt. Nhiều nghệ sĩ gọi đó là khoảnh khắc “bùng cháy cảm hứng” hoặc “điểm khởi đầu của sự sáng tạo”, và điều đó cũng đã được chứng minh.
Không ngẫu nhiên mà Lê Quý Đôn nói: “Thơ chảy từ lòng ta”. Tố Hữu chia sẻ về quá trình thai nghén, sáng tạo thơ của mình. Mỗi khi bị xao lãng, không thể giữ trong lòng, ông lại viết thơ. Còn Nên Krap thì tâm sự với một bạn văn rằng, tất cả những gì khiến ông đau khổ, phấn khích, đam mê, ông đều đặt vào thơ. Điều này làm cho chúng ta hiểu vì sao trong thư gửi một nhà thơ trẻ, để trả lời cho câu hỏi liệu nên viết thơ hay không, Ankle đã đưa ra lời khuyên chân thành rằng, hãy đối diện với trái tim vào đêm khuya tĩnh lặng, để tự trả lời câu hỏi: Liệu ta có thể sống mà không viết? Nếu không viết liệu ta có chết không? Chỉ khi nào trả lời được câu hỏi ấy, hãy bắt đầu viết. Điều này chứng tỏ, tình cảm mãnh liệt là đặc điểm đặc trưng của nghệ sĩ, là khâu đầu tiên của quá trình sáng tạo nghệ thuật.
Tình cảm không chỉ là khâu cuối cùng trong quá trình tạo ra tác phẩm của nhà văn. Người đọc không tiếp cận tác phẩm qua lý trí đầu tiên. Họ đến với tác phẩm bằng cách nối kết từ trái tim đến trái tim. Những ý tưởng sâu sắc nhất, sâu đậm nhất mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm sẽ thấm sâu vào tâm hồn người đọc dưới hình hài của cảm xúc. Mỗi khi đọc một bài văn, bài thơ, trí óc của chúng ta có thể chưa hiểu được nội dung, hình ảnh,… nhưng tình cảm đã chiếm trọn lòng chúng ta từ khi nào, lòng chúng ta bỗng rung lên theo những xúc cảm của tâm hồn của người nghệ sĩ, cũng bỗng yêu hoặc ghét theo tình yêu hoặc sự ghét của người viết.
Một tác phẩm có hay không cuối cùng được đánh giá dựa trên sự chân thực của tình cảm của người viết, khả năng làm xao lãng tình cảm của người đọc. Tư tưởng nghệ thuật không bao giờ là một khái niệm bảo thủ, nó là những khám phá, những triết lý riêng của nhà văn, một thứ triết lý nhân sinh đầy cảm xúc, thấm đẫm tâm huyết của người nghệ sĩ.
Nhìn vào thực tế văn học, tôi hiểu tại sao có những nhà văn suốt cả cuộc đời không tạo ra một tác phẩm có giá trị thực sự và phải chịu đắng cay của nghề văn. Và tại sao có những nghệ sĩ lớn như Xuân Diệu vẫn sống mãi với thời gian.
Dù dòng thời gian vẫn miệt mài chảy trôi, qua bao đời người dâu bể, qua bao thế kỷ thăng trầm, công việc âm thầm của nó vẫn là làm sạch, xóa bỏ mọi thứ, nhưng những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật sẽ còn sống mãi, trong đó có những vần thơ của Xuân Diệu.
Xuân Diệu là một nhà thơ vĩ đại. Và điều làm nên tầm vóc của nhà thơ lớn ấy là gì, nếu không phải là tư tưởng của thi sĩ? Tôi không tin rằng một nhà văn có thể nổi tiếng chỉ bởi vẻ ngoài. Không, một nhà văn vĩ đại, có những khám phá riêng về cuộc sống. Xuân Diệu đã đi theo con đường của những người nghệ sĩ lớn bởi ông đã đề xuất với cuộc đời này một tư tưởng, một quan niệm của riêng ông. Nếu có thể tóm tắt toàn bộ tư tưởng ấy thì ta có thể gọi nó là “niềm khát khao giao lưu với đời”. Tư tưởng ấy đã giúp cho sự nghiệp văn học của Xuân Diệu vững bền với thời gian.
Trong khi nhiều nhà thơ khác đang chìm đắm trong sự thất vọng và tìm kiếm trong quá khứ hoa lệ hoặc trốn chạy vào sự cô đơn trên những thiên đường tĩnh lặng, thi sĩ với đôi mắt biếc ấy luôn mở rộng nhìn cuộc sống với sự say mê và mong mỏi, lại khao khát được biến thành cây xanh vĩnh cửu trong khu vườn cuộc sống, trở thành rễ để hút mùa dưới lòng đất, muốn mãi ôm lấy cuộc sống này trong vòng tay say đắm. Đôi mắt biếc, đôi mắt tinh anh đã phát hiện ra một thiên đường trên mặt đất này, nơi mà những thi sĩ khác như Thế Lữ, Chế Lan Viên,… dường như có lúc chỉ muốn tránh xa. Viết thơ, Xuân Diệu chỉ muốn thả những mảnh hồn sôi động, tinh tế của mình tới mọi tâm hồn bạn bè, ở một nơi nào đó, của hôm nay và mãi mãi trong tương lai với một tấm lòng khao khát giao cảm với cuộc sống.
Tư tưởng nhân văn độc đáo, mạnh mẽ đó không phải là nguồn gốc sáng tạo của chuỗi vần thơ lung linh của Xuân Diệu, không phải là ánh sáng của những viên ngọc trai tròn trịa đấy sao? Trái tim khao khát giao cảm với cuộc sống đã giúp Xuân Diệu viết ra những vần thơ tình yêu đích thực, với trần thế đầy đẹp đẽ để Xuân Diệu lưu lại dấu ấn với thời gian như một ông hoàng của thơ tình – danh hiệu mà nhiều người mơ ước.
Nhưng Xuân Diệu có thể làm cho chúng ta xao lãng với những vần thơ đó, nếu tư tưởng của ông chỉ là một khái niệm chết chóc, “nằm trơ ra trên trang giấy”? Không, tư tưởng đó sẽ tồn tại mãi với cuộc sống này vì nó đã được “rung lên ở những cung bậc của tình cảm”, là một ngọc quý được tạo ra từ cả con người và tâm hồn, thế giới tình cảm của thi sĩ Xuân Diệu. Ngay cả tên gọi của tư tưởng nghệ thuật ấy cũng chứa đựng nhiều cảm xúc. Nó bắt nguồn từ nhịp đập mãnh liệt của trái tim Xuân Diệu – trái tim luôn mong muốn đập mãi với cuộc đời, cuộc sống này. Đó là một khao khát cháy bỏng, là một tình yêu sâu đậm hay là toàn bộ tinh thần của nghệ sĩ? Chỉ có thể biết rằng, mỗi vần thơ của Xuân Diệu như được đắp nên từ trái tim yêu cuộc sống, yêu đời sống nồng nhiệt.
Tư tưởng nhân văn độc đáo ấy không phải là sáng tạo của Xuân Diệu mà là kết quả của tình cảm, của nỗi sợ cô đơn. Nỗi sợ cô đơn đã ám ảnh, đã kẹp kín tâm hồn cậu bé Xuân Diệu – người từ thuở nhỏ đã phải trải qua sự lạnh lẽo của gia đình. Tâm hồn trẻ thơ không có tình mẹ, vì vậy luôn khao khát sự đồng cảm, muốn được người khác cảm thông. Xuân Diệu đã đến với thơ như một sự tự nhiên không thể tránh khỏi vì với ông, thơ là cầu nối tinh tế nhất để kết nối trái tim với những trái tim. Nhà thơ luôn mong muốn trở thành phấn thạch vàng bay khắp nơi, tràn ngập không gian. Nỗi sợ cô đơn hiện hình trong mỗi bài thơ, trong niềm vui cuồng nhiệt đã thấp thoáng những lo lắng.
“Lòng ta trống lắm, lòng ta lạnh
Như túp nhà không bốn vách xiêu”
Tôi luôn tự hỏi, nếu những bài thơ của Xuân Diệu không chứa đựng một tâm trạng sâu sắc, một tình yêu đời mãnh liệt thì liệu chúng có thể làm xao động lòng người đến vậy không? Những bài thơ như những viên ngọc quý được tạo nên từ cảm xúc say đắm, từ niềm đam mê mãnh liệt của nghệ sĩ đối với cuộc sống này. Chúng giúp ông khám phá những vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên trần thế:
“Ở đây là tổ ong, nơi trú mật hàng tuần tháng,
Ở đây có những đóa hoa nở rộ trên đồng ruộng,
Và đây, trên những cành cây mơ màng,
Là tổ của yến anh hòa âm tình yêu.”
Một thông điệp 'ở đây' như là một làn sóng đầy cảm xúc của tình yêu cuộc sống, nhà thơ muốn mỗi người thấy rằng cuộc sống này đáng yêu biết bao. Vì thế hãy sống trọn vẹn với cuộc sống, với những người xung quanh bằng tất cả trái tim và tận hưởng hương vị đẹp đẽ của cuộc sống này. Không cần phải đi xa, thoát khỏi thế giới này hay mơ mộng về những chốn xa xôi. Thiên đường chính là đây, là trái đất mà chúng ta yêu quý, gần gũi này.
Xúc cảm luôn muốn được tỏ ra, luôn muốn bộc lộ trên trang giấy để giải phóng, làm tan vỡ những ràng buộc của từ ngữ, làm cho thế giới của ý nghĩa phải rung chuyển:
“Ta muốn ôm
Cả cuộc sống mới đầy tiềm năng;
Ta muốn hòa mình vào mây trời và gió biển,
Ta muốn say mê với tình yêu như cánh bướm,
Và với thiên nhiên, cây cỏ, sự rạng ngời,
Để ngập tràn mùi thơm, đầy ánh sáng,
Đầy sức sống tươi mới,
Ôi, mùa xuân ơi, ta muốn chạm vào em!”
Các hành động mạnh mẽ như “bám”, “ôm”, “say”,”hiện hình” như muốn phá vỡ cả vỏ từng chữ. Cái áo cũ giờ đã chật chội không thể chứa nổi bộ cảm xúc sôi động, luôn toả sáng sự sống. Cảm xúc tràn ngập ra ngoài dòng chữ, thấm vào lòng người đọc, thổi bùng lên ngọn lửa của tình yêu cuộc sống. Nó khiến chúng ta không thể không yêu. Thơ hay tiếng lòng của nghệ sĩ đã biến thành thơ? Bao cảm xúc, say mê choáng ngợp tột cùng đã tập trung lại để tạo ra một câu thơ độc đáo vô cùng trong thơ ca Việt Nam: “Hỡi Xuân Hồng ta muốn cắn vào người!”.
Câu thơ ấy là tiếng vang phát ra từ tâm huyết sâu sắc của Xuân Diệu đối với cuộc sống này. Tư tưởng tạo nên đẳng cấp của nhà văn. Tình cảm thổi hồn cho tư tưởng đó sống dậy thành hiện thực. Liệu có ai phủ nhận mối quan hệ máu mủ không thể tách rời đó? Tư tưởng của Xuân Diệu cũng vậy, nó đã sống trong tình cảm, trong máu mủ của nhà thơ. Mỗi câu thơ thâm nhập và hồn ta không phải là chữ vô hồn, nó là tất cả cảm xúc của nhà thơ kích động mãi trong ta, thắp lên trong ta ngọn lửa của khát khao sống. Mỗi câu, mỗi chữ viết ra đều là máu mủ của nhà văn. Không có cảm xúc đó, liệu người đọc có thể nhớ mãi câu thơ: “Tháng giêng ngọt ngào như một đôi môi gần”- câu thơ được viết ra bởi một cảm nhận nhân sinh yêu đời, tràn đầy năng lượng, nồng nhiệt?
Không có “mong muốn giao cảm với đời” ấy, liệu có thể tạo ra một “Nguyệt cầm ” tuyệt phẩm, liệu Xuân Diệu có thể nghe thấy những cảm xúc tinh tế, mơ hồ, thoáng qua trong lòng người và vạn vật để truyền vào những dòng thơ ít lời nhiều ý sâu sắc nhưng chứa đựng bao tinh hoa? Tình cảm mãi là nguồn cảm hứng sâu sắc của mọi sáng tạo nghệ thuật chân chính trên cuộc đời này.
Xuân Diệu đã so sánh bản thân mình như một chú chim họa mi “đến từ ngọn núi xa xôi” ,”rụt cổ hót thảnh thơi” khi gió sớm, lúc trăng khuya. Chú chim họa mi ấy không mong mình sẽ khiến hoa nở, nhưng chắc chắn rằng, tiếng hót phải là một tiếng hót chân thành, sâu lắng đến mức đổ mồ hôi. Có lẽ vì tiếng hót đắm say ấy đã ghi dấu lại trên bầu trời thơ ca Việt Nam một cung bậc riêng, càng nghe càng thấy lạnh lùng, vang vọng. Vâng,toàn bộ sức sống của tâm hồn thơ Xuân Diệu đều ở đó phải không? Là con người đã biết hát lên bằng tất cả những rung cảm mãnh liệt của mình, niềm “mong muốn giao cảm với đời” , trái tim này lớn hơn cả nhà thơ, lớn hơn cả nhà nghệ sĩ.
Đã từng có thời kỳ người ta quá đánh giá vai trò của tư tưởng của nhà văn. Điều đó đã dẫn đến một hiện tượng đáng tiếc là văn chương rơi vào tình trạng triết học, luận điệu quá mức, mất đi vẻ đẹp thật sự của nó. Chúng ta không thể bỏ qua vai trò quan trọng của tư tưởng nghệ thuật. Tuy nhiên cũng không thể quên đi bản chất của văn chương nghệ thuật, khiến cho văn chương thực sự là văn chương, là cảm xúc: văn học phải được đặt vào cảm xúc, sống trong tình cảm. Đó là bài học dành cho mọi nghệ sĩ đích thực trong quá trình sáng tạo nghệ thuật.
Khá nhiều người đã than phiền về sự lạc hậu của nghệ thuật văn chương. Sự lạc hậu của văn chương nếu có thì có thể nằm ở đó chăng? Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị của tư tưởng nó mang lại. Nếu thiếu đi tư tưởng, tác phẩm chỉ còn là một bộ xương không hồn. Nghệ thuật không chứa đựng những tác phẩm chỉ là công cụ phát ngôn cho tư tưởng của nhà văn. Và vì thế, lời tâm niệm của Nguyễn Khải là quan điểm của những ai tận tâm với nghệ thuật văn chương.