Phân tích 2 dòng đầu Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão với dàn ý chi tiết và 5 bài văn mẫu xuất sắc nhất được tổng hợp từ các học sinh giỏi trên khắp cả nước. Từ 5 bài văn này, học sinh lớp 10 có thể tham khảo và rèn luyện kỹ năng viết văn phân tích, cảm nhận một cách sâu sắc hơn. Nội dung đầy đủ mời các bạn theo dõi và tải về.
Dàn ý phân tích 2 dòng đầu bài Tỏ lòng
I. Khởi đầu: Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
- Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320), sinh ra ở làng Phù ủng, huyện Đường Hào (nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên), là con rể (lấy con gái nuôi) của Trần Hưng Đạo.
- Đưa ra 2 câu thơ cần phân tích
II. Nội dung chính: Phân tích ý nghĩa của 2 câu thơ đầu tiên trong bài Tỏ lòng
Các câu mở đầu
Đồng cỏ trải dài nơi bờ sông,
Chúa trời dáng vẻ vững vàng đậm chồi
(Những động tác của người dũng sĩ trải dài qua nhiều thế hệ,
Ba quân mạnh mẽ chiến đấu, cuốn trôi dòng sông)
+ Hiện thực hình ảnh người anh hùng thời Trần cầm giáo ngang giữ vững đất nước được mô tả qua ngôn từ sâu sắc.
- 'Hoành sóc': Hình ảnh cầm giáo ngang thể hiện lòng kiên cường, quyết liệt, uy nghiêm, sẵn sàng đối đầu với kẻ thù.
- 'Hoành sóc giang sơn': Hành động quả cảm của anh hùng - bảo vệ quê hương non sông.
- 'Mấy thu': Dài qua nhiều thế hệ, tinh thần chiến đấu không mệt mỏi của con người được thể hiện.
=> Hình ảnh con người kiêu hãnh, uy nghiêm, với sức mạnh bao trùm cả đất trời, sông núi, và mang tính vũ trụ.
+ Hành động hùng vĩ, oai vệ của con người thời đại Trần
- 'Tam tì hổ' – một biểu tượng so sánh sáng tạo, là sự tượng trưng cho sức mạnh của đội quân Đông A và của cả dân tộc.
- Hình ảnh ba quân 'nuốt trôi trâu': mô tả sự hùng hổ, dũng mãnh của con người sẵn sàng chiến đấu và hy sinh, trong bối cảnh rộng lớn của thời gian và không gian.
III. Kết bài:
- Hình ảnh người anh hùng thời Trần được tường minh trong cảnh đẹp hùng vĩ của đất nước, là biểu tượng cho sức mạnh dân tộc.
Cảm nhận 2 câu đầu bài Tỏ lòng - Mẫu 1
Phạm Ngũ Lão, một danh tướng nổi tiếng trong lịch sử chống lại quân Mông Cổ, cũng là một nhà văn võ tài ba. Tuy chỉ có hai bài thơ được ghi lại, nhưng 'Tỏ lòng' là tác phẩm nổi bật, vẽ nên hình tượng anh hùng kiêu hãnh, với lòng dũng cảm và tinh thần cao thượng, phản ánh sức mạnh và oai vệ của thời Đông A.
Bài thơ 'Tỏ lòng' được viết bằng chữ Hán, theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Hai câu thơ đầu tiên đã tôn vinh sự hùng vĩ của con người và quân đội thời Trần, miêu tả hình ảnh anh hùng vĩ đại, sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách:
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Vũ khúc non sông trải qua mấy mùa
Ba quân sức mạnh nuốt trọn dòng sông)
Với giọng điệu mạnh mẽ, bức tranh về người anh hùng hiện ra với tư thế kiêu hãnh, kiên cường giữa không gian rộng lớn. Đó chính là tư thế 'vũ khúc' - cầm giáo ngang để bảo vệ lãnh thổ, sẵn sàng chiến đấu vì đất nước. Người anh hùng ấy được đặt trong bối cảnh của 'vùng đất' mênh mông, thời gian 'trải qua mấy mùa' vô tận. Không gian mở rộng đó cùng với thời gian dài lâu như vô hạn, truyền bá vẻ đẹp và oai vệ của người anh hùng. Dù bản dịch không trọn vẹn về tư thế của tướng sĩ, câu thơ đầu tiên vẫn tái hiện vẻ đẹp của người tráng sĩ, sẵn sàng đối mặt với mọi thử thách, đại diện cho chiến công vĩ đại cho Tổ quốc. Không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp của nhà lãnh đạo, hình ảnh quân đội của nhà Trần cũng được diễn tả tinh tế trong câu thứ hai - 'Ba quân sức mạnh nuốt trọn dòng sông'. Ba quân được mô tả như 'sức mạnh của hổ báo' và 'khí thế của dòng sông Ngưu'. Bản dịch tuy không truyền đạt hoàn toàn ý nghĩa, nhưng vẫn khen ngợi sức mạnh vững chãi, bất khuất của ba quân, tôn vinh sự kiên cường, dũng mãnh. Câu thơ kết hợp giữa hình ảnh hiện thực và cảm xúc cá nhân của tác giả, đóng góp vào việc mô tả vẻ đẹp và sức mạnh của quân đội nhà Trần.
Kết hợp cả hai câu thơ đầu, độc giả cảm nhận được vẻ đẹp hào hùng của người anh hùng và sức mạnh của quân đội thời đại Đông A, từ đó thấy được niềm tự hào của tác giả.
Phân tích 2 câu đầu bài Tỏ lòng - Mẫu 2
Thời kỳ nhà Trần là một trong những giai đoạn hào hùng nhất trong lịch sử Việt Nam với chiến công ba lần chống lại quân Mông Cổ. Nói đến những chiến công đó, không thể không nhắc đến Phạm Ngũ Lão - một vị tướng anh hùng với nhiều đóng góp trong cuộc kháng chiến bảo vệ đất nước.
Ngoài vai trò một vị tướng, ông còn mê đọc sách, thưởng thức thơ. Bài thơ 'Thuật hoài' không chỉ vẽ nên hình ảnh rõ nét của người anh hùng thời Trần mạnh mẽ, kiên cường; mà còn thể hiện tâm hồn cao quý của chính tác giả. Ngay từ câu thơ đầu tiên, tác giả đã mở ra trước mắt độc giả một không gian bao la của núi sông. Trong không gian mênh mông đó, hình tượng người anh hùng thời Trần với tư thế mạnh mẽ, kiên cường hiện lên. Người anh hùng ấy cầm ngang ngọn giáo để bảo vệ đất nước. Tư thế ấy, tầm vóc ấy như hòa quyện với giang sơn hùng vĩ.
Từ “hoành sóc” không chỉ mô tả tư thế mạnh mẽ, kiên cường mà còn tạo nên tinh thần cao cả. Người anh hùng canh giữ giang sơn không chỉ trong thời khắc nhất định. Thời gian dài dằng đẵng được tác giả nhắc đến qua ba từ “kháp kỉ thu” rất nhẹ nhàng. Thời gian mấy thu hòa quyện với không gian và con người tạo nên bức tranh sâu lắng, nổi bật là hình ảnh người anh hùng mạnh mẽ, kiên cường. Câu thơ thể hiện lòng tự hào của tác giả đối với vẻ đẹp của con người thời đại nhà Trần.
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”
(Nhảy múa giữa non sông qua nhiều mùa)
“Tượng đài” người anh hùng dưới ngòi bút của danh tướng họ Phạm vẫn rực rỡ và đầy uy nghi hơn khi được so sánh với thiên nhiên, vũ trụ. Tác giả đã sử dụng không gian bao la để thử sức mạnh, dùng thời gian vô tận thử lòng quyết tâm. Con người được đặt giữa giang sơn non nước mênh mông mà không hề trở nên nhỏ bé. Bởi “kháp kỉ thu” không chỉ là nhiều mùa thu, nhiều năm đã trôi qua mà là thời gian trải suốt một đời người, một thế hệ con người yêu nước, dùng xương máu, tinh thần hi sinh để xây dựng đất nước.
Đến câu thơ thứ hai, nhà thơ khiến người đọc cảm nhận một cách rõ nét khí thế của tam quân. Khí thế ấy được miêu tả qua cụm từ “khí thôn ngưu” – sức mạnh dũng mãnh nuốt trọn trâu. Đội quân ấy là tập hợp những anh hùng cầm ngang ngọn giáo bảo vệ Tổ quốc.
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
(Ba quân dũng mạnh nuốt trọn trâu)
“Tam quân” với khí thế hùng mạnh, dũng mãnh có thể đánh bại mọi kẻ thù, bảo vệ vững chắc đất nước. Hai câu thơ đầu hiện lên với khí thế hào hùng và vẻ đẹp của con người thời Trần. Nó cũng thể hiện lòng tự hào của Phạm Ngũ Lão về con người thời đại ông. nhà thơ đã thể hiện khả năng sử dụng ngôn từ sắc bén, giàu ý nghĩa. “Khí thôn Ngưu” có thể hiểu là sức mạnh vững chắc của quân đội nhà Trần hoặc sức mạnh của “tam quân” hiên ngang, mạnh mẽ như nuốt trọn trâu. Dù hiểu theo cách nào, người đọc vẫn hình dung được tầm vóc, vẻ đẹp của tráng sĩ đời Trần. Cách miêu tả của tác giả lại một lần nữa là tấm gương sáng để các nhà thơ thế hệ sau học tập. Người đọc tiếp tục bắt gặp “hào khí Đông A” trong thơ của Hồ Chí Minh “Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu/ Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy”
Với bút pháp nghệ thuật xây dựng hình ảnh người anh hùng mang hào khí thời Trần và ngôn ngữ thơ ngắn gọn, súc tích, “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão đã góp một phần vào việc vẽ nên những trang lịch sử chói lọi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của dân tộc.
Thời gian đã che phủ một lớp bụi vô hình lên sự kiêng cầu, người anh hùng khắc trên vai chữ “sát Thát” năm nào nay cũng chỉ còn lại hình bóng và ngay cả tác giả cũng đã trở thành người thiên cổ. Tuy nhiên, “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão vẫn mãi là một tác phẩm ghi dấu trong lòng người đọc.
Phân tích 2 câu đầu bài Tỏ lòng - Mẫu 3
Âm hưởng của thời kỳ Đông A với những chiến công hùng hậu trong lịch sử chống lại xâm lược từ bên ngoài, với ba trận chiến thắng chống lại quân Nguyên Mông, đã để lại dấu ấn sâu đậm trên nhiều tác phẩm của các nhà văn cùng thời. Phạm Ngũ Lão, một danh tướng của nhà Trần, cũng thể hiện cảm xúc của mình qua bài thơ “Thuật hoài” (Tỏ lòng).
Mặc dù chỉ có hai mươi tám chữ nhưng tác phẩm “Tỏ lòng” đã phản ánh rõ hình tượng người anh hùng thời Trần với tư thế mạnh mẽ, kiên cường và tấm lòng trung thành bảo vệ Tổ quốc. Hình ảnh đẹp đẽ đó được thể hiện rõ trong hai câu thơ đầu:
Hoành sóc giang sơn khắp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
(Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân hùng mạnh nuốt trọn trâu)
Trong phần dịch thơ, từ “hoành sóc” có nghĩa là “múa giáo”, thể hiện tư thế của người anh hùng cầm giáo bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, chỉ có từ “hoành sóc” mới thể hiện rõ tư thế kiêng cường, hùng dũng – biểu hiện cho tinh thần mạnh mẽ, anh dũng của người anh hùng đang tràn đầy khí thế, luôn sẵn sàng hy sinh cho dân tộc. Tác giả không chỉ đề cập đến chủ ngữ, nhưng người đọc vẫn hiểu rằng những từ ngữ ấy dành cho anh hùng, cho những người sẵn lòng chiến đấu chống lại kẻ thù. Họ không cần biết về không gian hay thời gian, bất kỳ nơi đâu trên “non sông” này đều là đất nước của họ, và dù có trải qua bao nhiêu mùa thu, họ vẫn luôn trung thành với nước mình, sẵn lòng hy sinh bất cứ lúc nào để bảo vệ dân tộc. Và từ những người như vậy, đã tạo nên một đội quân vô cùng mạnh mẽ:
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
(“Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”).
Câu thơ trên có thể hiểu theo hai cách: cách hiểu như lời dịch và một cách khác là khí thế át sao Ngưu, nghĩa là khí thế át cả sao trời. Có lẽ, không có một từ ngữ nào có thể nói hết về chí khí hùng mạnh của quân đội nhà Trần, đến mức Phạm Ngũ Lão phải lấy cả sao Ngưu để thể hiện sức mạnh hùng dũng ấy.
Chỉ với hai câu tứ tuyệt chi mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm với khí thế dũng mãnh, sẵn sàng xả thân giết giặc cứu nước của đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.
Phân tích 2 câu đầu bài Tỏ lòng - Mẫu 4
Việt Nam, đất nước tuy bé nhỏ đầy những gian lao vất vả nhưng rất đỗi anh hùng đã trải qua bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước với những mốc son chói lọi trong lịch sử. Một trong những mốc son ấy chính là ba cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lược của vua tôi nhà Trần.
Khí thế hùng mạnh, kiêu hãnh của nhân dân ta và những vị tướng sĩ thời Trần được ghi chép trong những tác phẩm văn chương nổi tiếng như 'Hịch tướng sĩ' của Trần Quốc Tuấn, 'Bạch Đằng giang phú' của Trương Hán Siêu, và nhiều tác phẩm khác. Trong số đó, 'Thuật hoài' của Phạm Ngũ Lão là một tác phẩm xuất sắc, kể lên sự hào hùng và niềm tự hào của tác giả.
'Thuật hoài' là một tuyên ngôn về lý tưởng của những người chiến sĩ, những người sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ quê hương, đồng thời thể hiện sức mạnh và quyết tâm chiến thắng của một thời đại anh hùng. Bài thơ này là một ví dụ điển hình cho nguyên tắc 'Quý hồ tinh, bất quý hồ đa' trong văn chương nghệ thuật.
Bắt đầu bài thơ là một hình ảnh lộng lẫy với âm điệu hùng vĩ:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”
(Múa giáo non sông trải mấy thu)
Bước vào thời kỳ chiến tranh đó, thời kỳ mà ngọn lửa như đang thiêu đốt cả tâm hồn, quyết tâm diệt trừ kẻ thù xâm lược, khẳng định một lần nữa: “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư”! Lúc đó, tư thế hùng dũng của những anh hùng Việt Nam 'hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu' được thể hiện. Câu thơ đầu tiên đã mô tả hình ảnh oai phong của người chiến sĩ với tư thế cầm giáo sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Họ tự hào vì là con người Việt Nam, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ đất nước, bảo vệ dân tộc, bảo vệ những dòng sông quê mình. Hình ảnh của những chiến sĩ này đã sánh ngang với vẻ đẹp hùng vĩ của đất trời, vượt lên cả sức mạnh của kẻ thù. Đó là biểu tượng của sự hi sinh, sự kiên trì để bảo vệ non sông dù bao nhiêu năm tháng trôi qua.
Nếu câu thơ đầu thể hiện sự lớn lao, kỳ vĩ của con người với tư thế và hành động như vũ trụ thì câu thơ thứ hai tập trung vào hình ảnh “ba quân” biểu tượng cho sức mạnh của quân đội nhà Trần và lòng dũng cảm của dân tộc Đại Việt thời kỳ đó.
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)
Đội quân “Sát Thát” xuất trận với số lượng đông đảo, sức mạnh phi thường, mạnh mẽ như hổ báo sẵn sàng đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân đó bùng cháy. Không ai có thể ngăn cản được họ. “Khí thôn ngưu” nghĩa là sức mạnh, lòng dũng cảm vượt trội, làm phai nhạt sức mạnh của sao Ngưu trên bầu trời, xuất phát từ câu “khí thôn Ngưu đẩu”. Đó là sức mạnh phi thường của ba quân thời Trần. Biện pháp nghệ thuật tinh tế đã tạo ra một hình ảnh thơ lịch sử, có tính sử thi. Hình ảnh ẩn dụ và so sánh trong thơ Phạm Ngũ Lão là độc đáo, không chỉ thể hiện sức mạnh vượt trội của đội quân “Sát Thát” mà còn làm nảy sinh cảm hứng thơ ca, tồn tại như một tác phẩm quý giá trong văn học dân tộc:
Thuyền bè muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
.....
(Phú sông Bạch Đằng – Trương Hán Siêu)
Nếu tư thế của người tráng sĩ với hình ảnh cây trường giáo như đo bằng chiều ngang của non sông thì tư thế của ba quân mạnh mẽ được biểu hiện qua chiều dọc mở ra không gian rộng lớn theo chiều cao đến tận sao Ngưu thăm thẳm. Con người kỳ vĩ như chiếm hết không gian bao la, tráng lệ. Hình ảnh người anh hùng lồng vào trong hình ảnh dân tộc vô cùng đẹp mắt, mang đậm tính sử thi, hoành tráng. Đó chính là sức mạnh, tiếng vang của thời đại, vẻ đẹp của con người anh hùng thời Trần, là thành quả của “hào khí Đông A”. Tóm lại, đó là hình ảnh con người vĩ đại, mang tầm vóc rộng lớn. Con người ấy vì ai mà dũng cảm, quyết tâm? Tất cả đều bắt nguồn từ trách nhiệm, ý thức dân tộc và tình yêu quê hương. Vì thế, con người vĩ đại liên kết với con người có trách nhiệm, ý thức, lòng nhân ái, con người hành động, đó chính là biểu hiện của cộng đồng con người, người sẵn sàng hy sinh cho đất nước.
Thuật hoài là một bài thơ ngắn gọn nhưng sâu sắc với thủ pháp gợi lên, tập trung vào ấn tượng, khái quát kết hợp với bút pháp hoành tráng mang âm hưởng sử thi đã mô tả vẻ đẹp của người anh hùng hiên ngang, dũng mãnh với lý tưởng cao cả, tinh thần lấp lánh không kém khí thế hùng hậu, quyết chiến quyết thắng của “hào khí Đông A”- biểu tượng cho thời Trần.
Phân tích 2 câu đầu bài Tỏ lòng - Mẫu 5
Từng có một thời, văn học Việt Nam được biết đến như những chiếc thuyền chở đầy ý chí và khát vọng cao cả của những người cùng thời, là những bài thi ca trung đại đầy hào hứng, hùng vĩ. Vì vậy, mỗi lần tiếng thơ “Thuật hoài” vọng lên, trước mắt chúng ta luôn hiện ra hình ảnh người anh hùng thời Lý – Trần với tâm hồn dũng cảm, chí trí rực rỡ, như những tượng đài đẹp nhất đại diện cho một thời đại lịch sử rực rỡ của dân tộc: thời Đông A.
Phạm Ngũ Lão đã miêu tả hình ảnh của người tráng sĩ thời Trần trong một tư thế đặc biệt:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”
Dịch nghĩa:
“Cầm ngang giáo gìn giữ non sông đã mấy thu”
Nhân vật tráng sĩ ấy hiện lên với hình ảnh cầm trên tay một cây giáo trong tư thế “hoành sóc” (cầm ngang). Cách cầm giáo ngang đã thể hiện sự vững chắc, kiên định, không một chút lắc lư trong tư thế. Tư thế này cũng tượng trưng cho tinh thần quyết định, sẵn sàng đương đầu với kẻ thù.
Từ “hoành sóc” kết hợp với “giang sơn” đã tạo ra hình ảnh cụ thể nhưng biểu tượng của người anh hùng, người cầm trên tay vũ khí để đương đầu với kẻ thù và đảm bảo an ninh cho đất nước.
Hai chữ “hoành sóc” đơn giản nhưng đã vẽ lên hình ảnh của người anh hùng thời Trần với sức mạnh và kiên cường. Đây cũng là sức mạnh của con người và quân đội nhà Trần.
Nhiệm vụ bảo vệ “giang sơn” đã được người anh hùng thực hiện với tinh thần kiên định dù đã trải qua nhiều thử thách. Phân tích hai câu thơ đầu của bài thơ 'Tỏ lòng' cho thấy hình ảnh của người tráng sĩ không chỉ đẹp trong không gian rộng lớn của 'giang sơn' mà còn kéo dài qua thời gian lịch sử.
Cầm giáo ngang trong tay, người anh hùng đã trải qua nhiều mùa thu nhưng vẫn hăm hở và nhiệt huyết. Hình ảnh này thể hiện tính anh hùng khi đối diện với mọi thách thức, mang tầm vóc vĩ đại và bền bỉ với thời gian.
Thông qua đó, chúng ta thấy rằng khi có kẻ thù xuất hiện, đất nước ta sẽ có những người anh hùng sẵn sàng đứng lên để bảo vệ nhân dân và đánh bại kẻ xâm lược. Dù đối mặt với khó khăn đến đâu, người anh hùng vẫn không e dè, không chùn bước.
Sau khi miêu tả vẻ oai phong của người anh hùng thời Trần, họ được thể hiện rõ nét hơn thông qua khí chất và sức mạnh của cả một tập thể:
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”.
Dịch nghĩa:
“Ba đội quân như hổ báo, khí thế hùng mạnh nuốt trôi trâu”
“Tam quân” phản ánh cách tổ chức binh lính của người xưa thành ba phân đội là tiền quân, trung quân và hậu quân, ở đây được sử dụng để chỉ tổng thể quân đội. Đặc biệt, khi nhắc đến quân đội nhà Trần, tác giả đã so sánh với “hổ” để thể hiện sức mạnh mạnh mẽ, hùng dũng. Điều này cũng là biểu hiện của tinh thần Đông A trong toàn bộ quân đội và là biểu tượng cho sức mạnh của dân tộc.
Cụ thể hơn, sức mạnh của quân đội đã được tác giả mô tả rõ bằng khả năng “khí thôn ngưu”. Phạm Ngũ Lão đã tạo nên khung cảnh hùng vĩ với sức mạnh tiến công hùng hồn. Khí thế đó có sức mạnh lớn đến mức có thể vượt qua cả bầu trời, cả không gian và vũ trụ rộng lớn.
Nếu ở câu thơ đầu, tác giả đã đưa con người vào một không gian và thời gian rộng lớn thì ở câu thơ thứ hai, không gian đó có lẽ lại được mở rộng hơn nữa bằng chiều cao của sao Ngưu thăm thẳm. Điều đó làm cho hình ảnh của người anh hùng trở nên kì vĩ, lớn lao hơn bởi vì tầm vóc được đo bằng thước đo của vũ trụ, của non sông.
Như vậy có thể thấy, qua hai câu thơ đầu, người đọc không chỉ cảm nhận được hình ảnh hùng dũng, lẫm liệt của người tráng sĩ mà còn thấy rõ tầm vóc mạnh mẽ và sức mạnh của quân đội nhà Trần và của cả dân tộc ta. Để diễn tả hiệu quả nội dung trên có thể kể đến sự thành công của tác giả trong việc sử dụng nghệ thuật so sánh, phóng đại trong một chất giọng vô cùng hào hùng và mạnh mẽ.
Phạm Ngũ Lão, vừa là một võ tướng tài ba, lại vừa có một trái tim nhạy cảm của một thi nhân. Bài thơ Thuật hoài thể hiện rõ hùng tâm và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ. Bài thơ không chỉ mang tính giáo dục sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại mà còn vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.