
Phân tích 2 dòng thơ cuối cùng trong bài Tỏ lòng để thấy rõ sự nhục nhã của anh hùng không phải là điều bình thường mà là sự nhục nhã của một con người vĩ đại. Qua đó, chúng ta nhận thức được lòng dũng cảm và ước mơ lớn lao của tuổi trẻ hiện nay. Hai dòng thơ cuối cùng trong bài có tác dụng giáo dục sâu sắc về triết lý cuộc sống và lối sống tích cực đối với thanh niên trong mọi thời đại. Ngoài ra, bạn cũng có thể tham khảo phân tích bài Tỏ lòng, phân tích 2 dòng đầu để hiểu sâu sắc hơn về bài thơ.
Dàn ý phân tích 2 dòng cuối cùng trong bài Tỏ lòng
I. Mở đầu: Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
- Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320), người xuất thân từ làng Phù ủng, huyện Đường Hào (nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên), là con rể (lấy con gái nuôi) của Trần Hưng Đạo.
- Hướng dẫn phân tích 2 câu thơ cuối cần chú ý
II. Nội dung chính: Phân tích ý nghĩa của 2 câu thơ đầu tiên trong bài Tỏ lòng
Hai câu kết thúc:
Nam nhi đang đứng trước công danh hiển hách,
Tự hào với dân chúng làm người Vũ hầu
(Công danh của người đàn ông vẫn còn nợ nần,
Nghe câu chuyện về Vũ Hầu mà thấy xấu hổ)
- Chí 'nam nhi': 'Công danh trái' là một món nợ về danh vọng. Công danh và thành tựu được xem như một trách nhiệm của nam giới; đó là phải tạo ra thành tựu, tạo ra danh tiếng, để lại di sản và uy tín cho cuộc đời, cho dân tộc và quốc gia.
Trong bối cảnh xã hội phong kiến, tinh thần làm trai trở thành một lí tưởng tích cực có tác động lớn đối với con người và xã hội.
- 'Tự hào với dân chúng làm người Vũ Hầu': Tác giả tự cảm thấy xấu hổ trước tấm gương về tài năng và đức tính vĩ đại của Vương Hầu vì chưa thể trả hết món nợ danh vọng đối với quốc gia, cho cuộc sống. =>Điều này thể hiện lòng thành thật và sự trong sạch của anh hùng. Đó là một nỗi xấu hổ đầy khiêm nhường và cao quý, giống như nỗi xấu hổ của Nguyễn Khuyến sau này trong bài Thu Vịnh: Lúc tâm trạng bừng cháy nhưng lại e ngại khi viết văn với ông Đào.
III. Kết luận:
Phân tích 2 dòng cuối để nhận biết sự thẹn thùng của nhân vật anh hùng không phải là điều dễ dàng mà thực sự là một dấu hiệu của một tâm hồn cao cả.
Phân tích hai dòng cuối trong bài Tỏ lòng - Mẫu 1
Phạm Ngũ Lão (1255-1320), một vị tướng tài trong thời kỳ Trần, góp phần lớn vào cuộc chiến chống lại quân Mông-Nguyên xâm lược. Dưới triều vua, ông đã được bổ nhiệm làm Điện súy, một trong những quan trọng nhất, chỉ đứng sau cha vợ mình là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn - tướng quân vĩ đại nhất lịch sử nước ta. Mặc dù là người lính, nhưng Phạm Ngũ Lão cũng rất say mê văn thơ và được mọi người ngợi khen về tài năng văn võ.
Ông đã sáng tác nhiều bài thơ xuất sắc, nhưng theo sử sách, hầu hết đã mất, chỉ còn lại hai bài Tỏ lòng và Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương. Trong văn học trung đại, việc viết thơ phải có chứa từ “chí”, theo nguyên tắc “Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”. Nghĩa là thơ phải mang theo một thông điệp lớn, và Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão là một ví dụ điển hình cho điều này - một bài thơ truyền đạt triết lý về lòng kiên nhẫn và sức mạnh của thời Trần.
Cho đến ngày nay, vẫn chưa có thông tin chính xác nào về nguyên nhân sáng tác của Tỏ lòng (Thuật hoài), nhưng theo một số giả thuyết, bài thơ được viết vào năm 1284, trước khi bùng nổ cuộc chiến chống lại quân Mông-Nguyên lần thứ hai. Khi đó, Phạm Ngũ Lão đang phục vụ ở biên giới cùng với một số tướng lĩnh khác, chuẩn bị cho cuộc chiến sắp tới.
Sau hai câu khai đề và thừa đề diễn đạt tinh thần đoàn kết của dân tộc, đến hai câu tiếp theo và câu hợp để giải thích và làm rõ ý nghĩa của câu đề và cả bài thơ. Chuyển từ khía cạnh cá nhân sang quan điểm của tác giả, để thể hiện niềm tin, khát vọng của mình về lòng trung hiếu, và món nợ công danh phải đền đáp cho quê hương. Đồng thời câu kết để tổng kết, thể hiện rõ vẻ đẹp tinh thần và phẩm chất lớn lao của Phạm Ngũ Lão. “Nam nhi vị liễu công danh trái” đề cập đến lý tưởng, lòng trung hiếu lập nên danh vọng, được thể hiện qua quan điểm, nhận thức của tác giả về mục tiêu công danh của người nam nhi.
Ở đây món nợ công danh bắt nguồn từ quan niệm “thành danh nhập thế” của Nho giáo, khác biệt với triết lý “từ bỏ thế tục” của Phật giáo, tuyên bố rời bỏ thế gian, giấu mình, bỏ qua vấn đề xã hội, phiền não, để tâm hồn thanh thản,.... Trong khi đó, đối với Nho giáo, con người đặc biệt là nam nhi phải mạnh mẽ đối mặt với sóng gió cuộc sống, sử dụng tất cả sức mạnh trí tuệ của mình để cống hiến cho cuộc đời, giúp đỡ dân tộc.
Trong bối cảnh hiện thời của đất nước, khi quân địch đang tiến đến bờ biển, cũng là lúc để những người nam nhi trả nợ công danh, hãy nỗ lực giúp đỡ quê hương, giúp dân thiết lập lập trường lớn. Người nam nhi phải bỏ lại những thú vui hàng ngày, tư duy ích kỷ, hạnh phúc gia đình, ruộng vườn để ra chiến trường sẵn sàng hy sinh cho sứ mệnh bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nhân dân. Có thể nói rằng món nợ công danh trong suy tư của Phạm Ngũ Lão không chỉ phản ánh triết lý tích cực của thời đại mà còn là biểu tượng sâu sắc của tinh thần dân tộc. Chính vì vậy nó luôn hiện hữu, gợi mở trong lòng tác giả.
Bên cạnh lòng trung hiếu lớn lao cùng với quan niệm về món nợ công danh trong thời đại, thì câu thơ cuối cũng là điểm nhấn về tinh thần và phẩm chất cao cả của Phạm Ngũ Lão. Tinh thần cao quý của tác giả được thể hiện qua nỗi xấu hổ khi nghe về Vũ Hầu. Vũ Hầu ở đây là biểu tượng cho Gia Cát Lượng, một nhà chiến lược kiệt xuất, một nhân vật lịch sử vĩ đại, là người bạn đồng hành trung thành, đóng góp vào việc mở rộng lãnh thổ của vua Lưu Bị - vị vua của nước Thục trong thời kỳ tam quốc náo loạn.
Khoảnh khắc tình thân và lòng trung hiếu lớn lao cùng với quan niệm về món nợ công danh trong thời đại được thể hiện qua câu thơ cuối cùng. Đây là điểm nhấn về tinh thần và phẩm chất cao cả của Phạm Ngũ Lão. Tinh thần cao quý của tác giả được thể hiện qua sự nhẹ nhàng đáng kính khi nghe về Vũ Hầu. Vũ Hầu ở đây là một biểu tượng của Gia Cát Lượng, một nhà chiến lược xuất sắc, một nhân vật lịch sử vĩ đại, là người đồng hành trung thành, góp phần vào việc mở mang lãnh thổ cho vua Lưu Bị - vị vua của nước Thục trong thời kỳ tam quốc hỗn loạn.
Đứng trước một con người với tầm vóc như vậy, Phạm Ngũ Lão dù đã có được nhiều thành tựu nhưng vẫn cảm thấy bản thân nhỏ bé, giống như một hạt cát giữa sa mạc vô tận, ông hiểu rằng công lao đã đạt được vẫn chưa đủ, và cần phải nỗ lực hơn nữa mới đáng với danh dự nam nhi, với Tổ quốc.
Từ những dấu hiệu trên, ta thấy được nét đẹp tâm hồn của Phạm Ngũ Lão đầu tiên là ý chí quyết tâm muốn theo gương người tiền bối để đạt được công danh, thứ hai là lý tưởng, lòng trung hiếu mong muốn đạt được danh tiếng sánh ngang với những người anh hùng lịch sử. Có thể nói rằng nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão là nỗi thẹn của một người trí thức có tầm nhìn lớn, cũng là nỗi thẹn của một người yêu nước khi mà nguy cơ xâm lược vẫn còn đe dọa.
Bài Thuật hoài đã phác họa hình ảnh của một anh hùng văn võ kiêu hùng, đồng thời cũng thể hiện sự kiên cường, lý tưởng và phẩm chất cao cả của con người thời Trần, từ đó tổng hợp, ca ngợi sự hào khí của những người cùng thời - vẻ đẹp của tinh thần Đông A. Mặt nghệ thuật, bài thơ gọn gàng, tập trung “giá trị tâm hồn, không quan trọng bề ngoài”, đồng thời bài thơ còn mang tính sử thi với những hình tượng kỳ vĩ đã nâng cao vị thế của anh hùng sánh ngang với vũ trụ rộng lớn.
Phân tích 2 câu cuối trong bài Tỏ lòng - Mẫu 2
Về Phạm Ngũ Lão, sách Đại việt sử ký toàn thư ghi chép: “Ngũ Lão sinh ra trong binh đoàn nhưng rất yêu thích đọc sách, là người tự do, có chí lớn, đam mê thơ ca, hầu như không chú ý đến việc quân sự. Nhưng khi lãnh đạo quân đội, ông thật sự là một chiến lược gia, luôn chiến thắng trong mọi trận đánh”. Dường như trong những bài thơ của ông cũng chứa đựng lý tưởng, khát vọng được vinh danh với đời, điều này được thể hiện qua tác phẩm “Tỏ lòng”.
Bài thơ Tỏ lòng vẽ nên hình ảnh của con người mạnh mẽ, có tinh thần lý tưởng, khao khát, và phẩm chất cao cả cùng với tinh thần hùng hồn trong hào khí Đông A.
Chúng ta có thể nhận thấy sự trữ tình trong hình ảnh của một người đàn ông giàu lòng dũng cảm và kinh nghiệm chiến trận. Dù từ ngữ có thể không đủ để diễn tả hết chí khí mạnh mẽ của quân đội nhà Trần. Tuy nhiên, dẫu mạnh mẽ nhưng trong lòng quân tướng luôn tồn tại một nỗi lo âu:
Người nam nhi vẫn còn nợ công danh,
Nghe chuyện Vũ Hầu nghĩ đến ngần ấy.
(Danh tiếng nam tử vẫn còn gánh nặng,
Nghe về Vũ Hầu cảm thấy xấu hổ)
Trong thời Trung đại, trả nợ công danh là khát vọng, ước mơ, và lý tưởng của hầu hết các người đàn ông. Có hai con đường để trả nợ công danh: học vấn và chiến công, hoặc tham gia vào cuộc chiến để lập công cho đất nước. Điều này được thúc đẩy bởi tư tưởng Nho giáo. Với Phạm Ngũ Lão, hiểu được thực trạng thời loạn, ông chọn đường tham gia vào trận mạc. Ông coi công danh là một nợ mà ông vẫn chưa trả. Không trả nợ không có nghĩa là không thành công, chỉ là thời điểm chưa đến. Cái “nợ công danh” đó, chỉ cần có cơ hội, ông sẵn lòng giải quyết. Thông qua ý thức về việc trả nợ công danh, khát vọng mạnh mẽ, kiên cường của người đàn ông hiện lên, mong muốn báo đáp nghĩa vụ đối với quê hương.
Trong đoạn này, “Vũ hầu” chỉ đến Khổng Minh Gia Cát Lượng, người đã đóng góp to lớn cho việc lập nên nhà Thục Hán dưới thời Lưu Bị. Đây là một người trung thành đã dâng cả cuộc đời mình cho nhà Thục và là biểu tượng của chí trung hiếu. Phạm Ngũ Lão cảm thấy xấu hổ khi nghe về Vũ hầu vì ông chưa thể đạt được danh vọng, chưa hoàn thành nhiệm vụ trả nợ cho đất nước. Ngoài ra, ông cảm thấy “thẹn” trước tài năng và phẩm chất cao quý của Gia Cát Lượng. Cảm giác “thẹn” đó là sự tôn trọng đối với Vũ hầu cũng như là ước ao của một người đàn ông trí thức muốn theo đuổi lòng trung hiếu, hoàn thành nhiệm vụ truyền thống. Nếu chỉ về mặt chưa thành công trong sự nghiệp thì việc cảm thấy thẹn là dễ hiểu. Tuy nhiên, khi đã dốc hết tâm trí cho sự nghiệp quốc gia mà vẫn cảm thấy thẹn thì phải thấy được khát vọng lớn lao của nhân vật. Hai câu thơ sau đã minh họa rõ ràng khát vọng, ước mơ của anh hùng và cảm giác “thẹn” của người quân tử. Tinh thần nhân văn cũng được thấy rõ trong thơ của Cao Bá Quát:
“Cả đời chỉ biết cúi đầu với hoa mai”
Hoặc trong thơ của Nguyễn Khuyến:
“Nghĩ ra lại cảm thấy thẹn trước ông Đào”
Hoặc:
“Vua chưa đáp đền tí nào,
Cúi trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời”
Phạm Ngũ Lão, với bản tính của một người lính tài ba cùng trái tim nhạy cảm của một thi sĩ, đã để lại dấu ấn của mình qua bài thơ Thuật Hoài, thể hiện lòng trung hiếu và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ. Bài thơ này cũng là một tác phẩm giáo dục sâu sắc về nhân sinh và lối sống tích cực cho thanh niên mọi thời đại. Thuật Hoài ghi dấu danh vọng của Phạm Ngũ Lão, vị tướng văn võ kiệt xuất, đến với muôn đời sau.
Phân tích 2 câu thơ cuối bài Tỏ lòng - Mẫu 3
Phạm Ngũ Lão nổi tiếng với thành tựu trong cuộc chiến chống lại quân Nguyên Mông. Tuy nhiên, ông cũng là một người yêu thơ sách, được ngưỡng mộ là người tài năng về văn võ. Tác phẩm 'Tỏ lòng' và 'Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương' là những tác phẩm duy nhất còn lại của ông, đặc biệt 'Tỏ lòng' đã tôn vinh hình tượng anh hùng của Phạm Ngũ Lão cùng với lí tưởng và phẩm chất lớn lao, đồng thời phản ánh hào khí thời đại Đông A.
Bài thơ 'Tỏ lòng' được sáng tác bằng chữ Hán, sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.
Nếu ở hai câu thơ đầu, tác giả tôn vinh sự hùng mạnh của con người và quân đội thời Trần thông qua việc miêu tả người anh hùng mạnh mẽ, thì ở hai câu thơ cuối, như một lời thổ lộ của người làm trai, công danh, và sự nghiệp như một món nợ trong cuộc đời.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
(Công danh nam tử vẫn còn nợ mãi,
Lòng thấy tiếc khi nghe chuyện Vũ Hầu)
Là một thành viên nổi bật của quân đội hùng mạnh đó, Phạm Ngũ Lão rõ ràng nhận thức trách nhiệm của bản thân.
Trong văn chương, khi viết về lòng chí làm trai, chúng ta thường gặp những dòng thơ quen thuộc của Nguyễn Công Trứ: Làm trai đứng trước trời đất, phải để lại dấu vết với non sông. Cũng như nhiều anh hùng thời đại, Phạm Ngũ Lão tôn trọng lý tưởng làm việc vì quân tử, vì quốc gia. Vì vậy, ông cho rằng mỗi người nam nhi đều phải trả nợ công danh, và ở đây, nợ công danh là hành động đóng góp cho sự thịnh vượng của đất nước: 'Nam nhi vị liễu công danh trái'. Lý tưởng công danh này phản ánh tinh thần tiến bộ và đạo đức cao quý của một vị tướng sẵn lòng hy sinh cho dân tộc, cho đời sống. Cảm thấy chưa thể trả hết nợ công danh, tác giả suy tư, lo lắng: 'Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu'.
Vũ Hầu, cũng gọi là Khổng Minh Gia Cát Lượng, là một nhân vật đáng kính trong triều đại Hán, đã có công lớn giúp Lưu Bị phục hồi vương triều. Ông cảm thấy 'thẹn' khi so sánh bản thân với cha ông, tự nhận thấy rằng mình chưa thể sánh kịp với họ. Khát vọng mong muốn lập thêm nhiều công danh được diễn đạt một cách khiêm nhường khi ông đặt mình bên cạnh mưu thần Gia Cát Lượng. Tâm trạng âm u thể hiện khát vọng thành tựu và lòng kiên định làm người của Phạm Ngũ Lão.
Với ngôn từ hàm súc, cùng những hình ảnh sâu sắc, 'Tỏ lòng' đã miêu tả vẻ đẹp của con người thời nhà Trần với sức mạnh, lý tưởng và nhân cách cao quý, đồng thời phản ánh tinh thần hào hùng của thời đại. Sức mạnh cảm xúc đó để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc, nhắc nhở thế hệ trẻ sống không quên những lý tưởng cao đẹp để cuộc sống trở nên ý nghĩa hơn.
Phân tích 2 câu cuối của bài thơ 'Tỏ lòng - Mẫu 4'
Bài thơ 'Tỏ lòng' của Phạm Ngũ Lão đã làm nổi bật lý tưởng sống cao cả của tác giả. Lý tưởng ấy được thể hiện qua hình ảnh một trang nam nhi với tâm hồn cao quý, ý chí kiên cường để thực hiện những ước mơ cao đẹp trong bối cảnh đất nước đang phải đối mặt với nguy cơ ngoại xâm. Đặc biệt, lý tưởng này được thể hiện rõ qua 2 câu thơ cuối của bài.
Với tinh thần chiến đấu oai hùng, bảo vệ từng phần đất đai cho sự thịnh vượng của đất nước, Phạm Ngũ Lão đã chia sẻ suy nghĩ về trách nhiệm làm người trong thời kỳ ấy:
'Nam nhi đều phải trả nợ công danh,
Quyết tâm xông pha như Vũ Hầu'
(Công danh nam tử vẫn còn nợ,
Luống thẹn nghe chuyện Vũ Hầu)
Phạm Ngũ Lão đã nhắc đến món nợ công danh 'công danh trái'. Đối với những người nam nhi sống trong thời đại xưa, con đường công danh vô cùng quan trọng. 'Nợ công danh' ở đây không phải là công danh tầm thường, ích kỷ cho riêng bản thân mình. Mà nó chính là món nợ lớn với đất nước, là ý trí và tài năng của một người nam tử hán đại trượng phu, đầu đội trời chân đạp đất, dám hi sinh vì nghĩa lớn, vì sự nghiệp chung của toàn dân tộc.
Đến câu thơ cuối cùng tác giả thể hiện sự khiêm tốn của mình, cho rằng những việc mình làm cho đất nước chưa có gì cả nên luống thẹn:
“ Luống thẹn nghe về sự nghiệp Vũ Hầu”
(Quyết tâm như Vũ Hầu)
Phạm Ngũ Lão “nhớ” chưa sánh bằng Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán trong việc trừ giặc, cứu nước. Nhớ vì so với cha ông mình chưa thể ngang bằng. Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị, mưu trí tuyệt vời, nhưng điểm đặc biệt là lòng trung thành với chủ. Vì thế “luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu” thực chất là một lời thề suốt đời với chủ tướng Trần Hưng Đạo, “nhớ” còn được hiểu là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão muốn sánh với Vũ hầu. Xưa nay, những người có nhân cách vẫn thường mang trong mình nỗi nhớ. có thể thấy trong nhà thơ có một tư tưởng anh hùng yêu nước lớn mà lại còn có cả sự trung quân nữa. Bấy nhiêu điều mà ông làm được khi đi đánh giặc, ông đều cho là chưa làm được gì với núi sông của mình.
Qua câu thơ, Phạm Ngũ Lão đã thể hiện nỗi lòng, khát khao của bản thân muốn cống hiến nhiều hơn nữa cho giang sơn, đất nước để trả món nợ công danh của trí làm trai. Nhà thơ Nguyễn Công Trứ cũng từng có nhiều vần thơ hay khi nói về 'phận sự làm trai':
'Vũ trụ chức phận nội
Đấng trượng phu một túi kinh luân.
Thượng vị đức, hạ vị dân,
Sắp hai chữ 'quân, thân' mà gánh vác'
Phạm Ngũ Lão đã là một danh tướng, có công lớn với đất nước với thời nhà Trần. Vậy mà ông vẫn luôn cảm thấy hổ thẹn khi nghe 'thuyết Vũ Hầu'. Ông đã khéo léo khi nhắc đến một người dưng trí đa mưu là Gia Cát Lượng trong thời Tam Quốc để thể hiện nỗi nhớ của mình.
Như vậy, mặc dù chỉ được thể hiện trong số lượng chữ hạn định của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật nhưng Phạm Ngũ Lão đã để tác phẩm “Tỏ lòng” ghi lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Dấu ấn đó được tạo nên từ việc tác giả đã xây dựng nên hình ảnh của một người anh hùng vừa có sức mạnh, vừa có lí tưởng. Không những thế, người anh hùng ấy lại mang vẻ đẹp của một nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng của thời đại. Tác phẩm của Phạm Ngũ Lão cũng đã giúp cho những thế hệ thanh niên mọi thời đại nhận được một bài học có giá trị, đó là sống trên đời thì phải có ước mơ, lí tưởng và cần phấn đấu không ngừng để biến ước mơ, lí tưởng ấy trở thành hiện thực.
