TOP 10 bài Phân tích khổ 2 Viếng lăng Bác ĐẶC SẮC, giúp học sinh lớp 9 hiểu sâu hơn về sự thành kính và xúc động của nhà thơ Viễn Phương khi đến thăm lăng Bác.
Cả khổ thơ thứ hai của bài Viếng lăng Bác ca ngợi công ơn của Bác, biểu hiện lòng biết ơn sâu sắc của toàn dân Việt Nam dành cho vị lãnh tụ yêu quý của dân tộc. Mời học sinh cùng tham khảo nội dung dưới đây để nắm vững kiến thức môn Văn 9.
Bản vẽ sơ đồ tư duy Phân tích khổ thứ 2 của bài thơ Viếng lăng Bác
Bản phác thảo dàn ý phân tích khổ thứ hai của bài thơ Viếng lăng Bác
Dàn ý thứ nhất
1. Khởi đầu
Giới thiệu về bài thơ Viếng lăng Bác và tóm tắt nội dung, nhấn mạnh vào cảm xúc chủ đạo của khổ thứ 2.
2. Phần chính
- Sự niềm nở của tác giả khi đồng hành cùng những người khác vào thăm lăng
- Tấm lòng kính trọng, biết ơn đối với nhà lãnh đạo vĩ đại:
- Hình ảnh 'mặt trời' không chỉ mô tả thực tế mà còn ý niệm về công lao vĩ đại của Bác đối với dân tộc, giống như ánh sáng mặt trời sưởi ấm và chiếu sáng.
- Việc sử dụng động từ 'thấy' nhấn mạnh sự hiện diện của vầng thái dương rực sáng trong lăng mộ, mang theo sự ngưỡng mộ và tôn trọng.
- Việc sử dụng cụm từ 'ngày ngày' ở đầu câu thơ vừa thể hiện tính bất biến của tự nhiên vừa tạo ra hình ảnh vĩnh cửu của Bác Hồ trong tâm trí mọi người.
- Hình ảnh hàng người vào thăm lăng:
- Dòng người sắp xếp hàng, bước chân đi chậm rãi, làm dấy lên nỗi xúc động sâu sắc - 'bước trong nỗi nhớ thương'.
- Mỗi cá nhân mang theo tình cảm kính trọng, tôn trọng Bác 'vẫn ghi sâu trong tim bảy mươi chín mùa xuân'.
- Hoán dụ với 'bảy mươi chín mùa xuân' để chỉ tuổi của Bác, đồng thời tôn vinh cuộc đời tươi đẹp và đầy ý nghĩa, hiến dâng tinh hoa cho dân tộc của Bác.
3. Phần kết
Tổng kết
Dàn ý 2
I. Mở bài:
- Giới thiệu tổng quan về tác giả và tác phẩm:
- Viễn Phương là một nhà thơ đã trải qua những gian nan của cuộc sống chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược.
- Bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện sự lòng thành kính và xúc động của nhà thơ khi thăm viếng lăng Bác.
- Tóm tắt nội dung khổ thơ 2: Sự nhớ mong của tác giả khi đứng trước lăng Bác.
II. Phần thân bài:
* Tóm tắt về bài thơ:
- Bối cảnh sáng tác: Vào tháng 4 năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thành công và đất nước thống nhất, lăng Bác Hồ mới được khánh thành. Nhà thơ Viễn Phương đã đến Bắc thăm Bác và sáng tác bài thơ này. Bài thơ sau đó được in trong tập “Như mây mùa xuân” năm 1978.
- Ý nghĩa nội dung: Bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện lòng thành kính và sự xúc động sâu sắc của nhà thơ và tất cả mọi người dân Việt Nam khi đến thăm lăng Bác.
* Phân tích về khổ thơ thứ hai:
- Tác giả tạo ra một cặp hình ảnh thực tế và ẩn dụ: mặt trời tự nhiên sáng rực và hình ảnh của Bác Hồ.
'Mỗi ngày mặt trời di chuyển qua trên lăng
Thấy một mặt trời đỏ rực trong lăng'
+ Từ ngữ “mỗi ngày”: biểu hiện cho thời gian vô tận, tình cảm nhớ thương của nhân dân với Bác Hồ không bao giờ phai nhạt.
+ Ẩn dụ về “mặt trời”: Bác Hồ là mặt trời của dân tộc, mang đến nguồn sống, ánh sáng hạnh phúc, và ấm áp cho cuộc sống của nhân dân -> Thể hiện lòng kính trọng và tình yêu mến với Bác.
=> Hình ảnh ẩn dụ ca ngợi sự bất diệt, vĩnh hằng của Bác trong lòng hàng triệu người dân Việt Nam.
'Hàng ngày dòng người đi trong tình thương nhớ
Gắn kết tình yêu qua bảy mươi chín mùa xuân...'
- Hình ảnh dòng người đi trong tình thương nhớ, thể hiện sự xúc động sâu sắc trong lòng tiếc thương và kính trọng của người dân khi vào thăm lăng.
- Hình ảnh tượng trưng cho sự gắn kết đẹp đẽ “gắn kết tình yêu qua bảy mươi chín mùa xuân”
+ Tượng trưng về “tràng hoa”: miêu tả người dân khi vào viếng Bác Hồ như những bông hoa tạo nên một tràng hoa rực rỡ, thể hiện lòng kính trọng, tình yêu và hi vọng vào lãnh tụ.
-> Hình ảnh đoàn người vào viếng Bác là hiện thực, nhưng cũng là tượng trưng sáng tạo, tuyệt vời của nhà thơ: cuộc sống của dân tộc nở hoa dưới bóng dáng cách mạng của Bác.
+ 'Bảy mươi chín mùa xuân': biểu tượng cho tuổi đời của Bác, cuộc đời ông dành cho sự phát triển của quốc gia và dân tộc.
=> Sự biết ơn sâu sắc đối với công lao vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự tôn kính của người dân Việt Nam dành cho vị lãnh tụ của họ.
III. Kết luận:
- Tóm tắt nội dung của khổ thơ.
- Phê phán cá nhân về khổ thơ.
Dàn ý 3
a. Khởi đầu:
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm một cách tổng quan.
- Giới thiệu sơ lược về nội dung của hai khổ thơ “Viếng lăng Bác”.
b. Thân thể:
* Bốn câu thơ đầu:
- “Mặt trời chiếu sáng lên lăng”: Hình ảnh thực tế mặt trời tỏa sáng lên mộ.
- “Mặt trời trong lăng”: Ẩn dụ về Bác như mặt trời chiếu sáng cho dân tộc.
=> Bác như mặt trời tỏa sáng cho dân tộc, sẽ mãi luôn sống trong lòng người Việt.
* Bốn câu thơ tiếp theo:
- Nghệ thuật sử dụng kỹ thuật điệp cấu “ngày ngày”: Để nhấn mạnh sự thường xuyên.
- “Dòng người vào lăng với tình thương nhớ”: Mô tả cảnh người dân xếp hàng, đến viếng Bác với tình yêu thương không biên giới.
- “Hoá tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”: Mỗi người là một bông hoa tươi đẹp, tạo nên một tràng hoa lớn để tặng Bác.
c. Tóm tắt:
- Reaffirming the value of content and artistry.
- Cảm nhận của em về đoạn thơ
Phân tích khổ 2 Viếng lăng Bác một cách súc tích
Viếng lăng Bác là một trong những bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Viễn Phương, thể hiện lòng xót thương và biết ơn đối với Bác. Đặc biệt, khổ thơ thứ hai thể hiện tâm trạng sâu sắc của tác giả khi thấy Bác:
“Mỗi ngày mặt trời qua lăng sáng ngời
Nhìn mặt trời trong lăng, tim đỏ lồng lộng
Mỗi ngày mặt trời trong lòng thương nhớ
Tạo tràng hoa, dâng bảy mươi chín mùa xuân'
Cả khổ thơ là sự ca ngợi công ơn của Bác, đó cũng là niềm cảm kích, niềm biết ơn vô bờ của tất cả mọi người dân Việt Nam dành cho Bác. Hai câu thơ đầu là hình ảnh ẩn dụ đầy độc đáo. Mặt trời của tự nhiên trong câu thơ đầu là mặt trời của tự nhiên, là nguồn sống cho muôn loài và hàng ngày mọc rồi lặn như một quy luật, một sự tuần hoàn của cuộc sống. Mặt trời ấy quan trọng, quý giá và chỉ có một mà thôi. Ấy nhưng mặt trời tự nhiên lại bắt gặp một mặt trời nữa cũng đẹp, cũng sáng. Ấy là “mặt trời trong lăng”- ẩn dụ chỉ Bác Hồ với những hi sinh lớn lao dành cho dân tộc. Điệp từ thời gian “ngày ngày” lần nữa được sử dụng với dụng ý khẳng định tính chất thường xuyên liên tục. Đoàn người vào lăng viếng Bác nối nhau thành “dòng”. Và tất cả “dòng người” đều chung một nỗi niềm, cảm xúc là thương yêu Bác. Thông qua nghệ thuật ẩn dụ, dòng người nối tiếp nhau kết thành “tràng hoa” dâng Bác hiện lên thật đẹp. Viễn Phương mượn ẩn dụ “bảy mươi chín mùa xuân” để nói về tuổi của Bác. Bác ra đi nhưng luôn sống mãi ở độ tuổi bảy mươi chín với sức xuân tràn ngập. Viễn Phương đã cô đọng, kết tinh tình cảm để cảm ơn người cha đem đến mùa xuân cho đất nước, con người Việt Nam.
Phân tích khổ 2 bài thơ Viếng lăng Bác - Mẫu 1
Đoạn 2 Viếng lăng Bác bày tỏ nỗi xúc động thiêng liêng cùng lòng tự hào và biết ơn vô hạn của nhà thơ khi tham gia vào việc viếng lăng Bác.
Mỗi ngày mặt trời sáng qua lăng
Nhìn mặt trời trong lăng rực đỏ
Mỗi ngày dòng người viếng thương nhớ
Kết thành tràng hoa dâng bác bảy mươi chín mùa xuân...
Hai câu đầu với hình ảnh mặt trời thực và ẩn dụ tạo nên bức tranh sâu sắc về tình cảm của nhà thơ dành cho Bác. Bác Hồ được so sánh với mặt trời mang lại sự sống và ánh sáng cho dân tộc, là biểu tượng của niềm vui và hạnh phúc.
Dòng người đông đúc, chẳng khác nào một “tràng hoa” muôn sắc ngàn hương từ mọi miền đất về đây thăm Bác. Hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa” rất đẹp, nó như muốn nói mỗi người dân Việt Nam như một đóa hoa đang nở rực rỡ dưới ánh mặt trời của Bác đã về đây kính dâng lên Người những gì tinh túy nhất của cuộc đời, lời thơ diễn tả tấm lòng biết ơn, sự thành kính của nhân dân đối với Bác Hồ vĩ đại. Chữ “dâng” chứa đựng biết bao tình cảm, biết bao tình nghĩa.
Nhà thơ không nói “bảy chín tuổi” mà nói: bảy mươi chín mùa xuân, cách nói ẩn dụ gợi ý nghĩa cuộc đời Bác đẹp như những mùa xuân, Bác đã đem về mùa xuân cho đất nước, cho cuộc đời. Lời thơ chân thành, giản dị đã bộc bạch bao tình cảm yêu mến, nhớ thương của viễn Phương và cũng là của nhân dân miền Nam với Bác.
Phân tích khổ hai bài thơ Viếng lăng Bác - Mẫu 2
Có muôn ngàn lời thơ đã viết về Bác Hồ kính yêu với tấm lòng thành kính và yêu thương vô hạn. Những vần thơ của Viễn Phương cũng vậy, thơ ông dung dị và cảm xúc sâu lắng. Đặc biệt, ở khổ thứ hai bài thơ Viếng lăng Bác làm chúng ta lắng đọng với những vẫn thơ mộc mạc:
Mỗi ngày mặt trời sáng qua lăng.
Thấy mặt trời trong lăng rực đỏ.
Mỗi ngày dòng người viếng thương nhớ.
Kết thành tràng hoa dâng Bác bảy mươi chín mùa xuân.
Hai câu thơ đầu được tạo bởi hai hình ảnh sóng đôi, tương hỗ với nhau. Mặt trời vũ trụ vẫn ngày ngày tỏa ánh sáng ấm áp cho muôn loài. Mặt trời trong lăng là ẩn dụ tượng trưng cho Bác - người cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam, nằm yên trong giấc ngủ bất tử.
Ở hai câu thơ tiếp theo, là hình ảnh của dòng người vào lăng viếng Bác:
Mỗi ngày dòng người viếng thương nhớ.
Kết thành tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Dòng người vào lăng như kéo dài vô tận, đông đúc nhưng tất cả đều trang nghiêm và thành kính khi đến lăng viếng Bác. Tất cả họ như là những bông hoa tươi thắm kính dâng lên Bác. 'Dâng bảy mươi chín mùa xuân', hình ảnh hoán dụ về con người đã sống bảy mươi chín năm đầy niềm hân hoan như ngày xuân.
Khổ thơ kết lại trong hình ảnh đóa hoa dâng Bác với niềm tiếc thương vô hạn, những câu thơ bảy, tám và chín chữ với nhịp thơ chậm rãi như kéo dài hơn những nỗi nhớ thương khôn nguôi.
Phân tích khổ thơ thứ hai bài Viếng lăng Bác - Mẫu 3
Bác không thể mất trong ý nghĩ, tình cảm của nhà thơ cũng như mỗi chúng ta. Lòng nhớ thương và những gì đẹp nhất ở mỗi người dâng lên Bác quả đúng là hoa của đời.
Mặt trời lên cao dần và hình ảnh mặt trời lại gợi trong tác giả những liên tưởng mới:
Mỗi ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Mặt trời thiên nhiên theo quy luật của nó, vận hành trong vũ trụ, mỗi ngày đi qua trên lăng và thấy một mặt trời khác trong lăng rất đỏ. Mặt trời trong lăng là ẩn dụ chỉ Bác Hồ, mang lại ánh sáng, ban ngày và hạnh phúc ấm no cho đời. Chi tiết 'rất đỏ' gợi trái tim nhiệt huyết vì Tổ quốc, vì nhân dân, trái tim yêu thương vô hạn của Bác. Mặt trời Bác mãi tỏa sáng, tỏa ấm, tỏa thắm cho đời. Màu đỏ ấy làm ấm lại cả khung cảnh thương đau. Nhiều người đã ví Bác như mặt trời, đặt mặt trời Bác sóng đôi và trường tồn cùng mặt trời thiên nhiên là sáng tạo riêng của Viễn Phương.
Hình ảnh dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác cũng gợi bao xúc động trong lòng nhà thơ:
Mỗi ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Điệp ngữ “ngày ngày” vừa gợi ấn tượng về cõi trường sinh vĩnh viễn, vừa gợi tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác. Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” vừa thực vừa ảo. Nỗi nhớ thương vốn chỉ có trong lòng người nhưng ở đây nó bao trùm lên cả thời gian, không gian. Và mỗi người với lòng nhớ thương là một đóa hoa kết nên “tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” cuộc đời Bác một cuộc đời đã dâng cho đời bao hoa trái. Dòng người được tác giả ví như “tràng hoa” là một ẩn dụ độc đáo mà thích hợp. Dòng người vào viếng Bác đi thành vòng tròn dễ gợi liên tưởng đến tràng hoa. Nếu “vòng hoa” thì là viếng người đã khuất. Ở đây là “tràng hoa” để dâng “bảy mươi chín mùa xuân”. Bác không thể mất trong ý nghĩ, tình cảm của nhà thơ cũng như mỗi chúng ta. Lòng nhớ thương và những gì đẹp nhất ở mỗi người dâng lên Bác quả đúng là hoa của đời. Tràng hoa người ở đây hơn hẳn mọi tràng hoa của tự nhiên, nó được kết nên từ lòng ngưỡng mộ, thành kính, nhớ thương Bác. Nhịp thơ đoạn này chậm rãi, trải dài 8, 9 tiếng một dòng thơ, lặp lại từ ngữ, cấu trúc câu vừa diễn tả không khí thiêng liêng, thành kính trong lăng, vừa gợi bước đi chầm chậm của dòng người vào viếng Bác và lòng thành kính, thiết tha của nhân dân với Bác.
Phân tích khổ thứ 2 bài Viếng lăng Bác - Mẫu 4
Viễn Phương là nhà thơ gắn bó với cuộc sống chiến đấu của bà con quê hương trong hai cuộc kháng chiến Pháp và chống Mỹ. Thơ ông dung dị, cảm xúc sâu lắng. Ông có nhiều bài thơ đặc sắc, trong đó “Viếng lăng Bác” là bài thơ tiêu biểu. Đọc bài thơ, ta thấy lắng đọng nhất trong những dòng thơ:
“Hàng ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rực rỡ màu đỏ
Hàng ngày dòng người đi trong nỗi nhớ thương
Hình thành tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân”
Bài thơ “Viếng lăng Bác” được viết vào tháng Tư năm 1976, khi tác giả cùng với đoàn đại biểu miền Nam thăm lăng Bác. Đây là tác phẩm thể hiện cảm xúc sâu lắng và lòng tiếc thương vô hạn của dân tộc dành cho Bác. Bài thơ được coi là cuộc hành hương của Viễn Phương sau nhiều năm chờ đợi để trở về gặp lại người cha già kính yêu. Phần đầu của bài thơ miêu tả hình ảnh hàng tre trước lăng Bác. Ở khổ thơ thứ hai này, tác giả thể hiện suy tư trực tiếp về Bác. Phần mở đầu của đoạn thơ là hình ảnh rất đẹp và mang tính cụ thể nhưng cũng mang ý nghĩa tượng trưng:
“Hàng ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rực rỡ màu đỏ”
Hai câu thơ này đồng âm nhau qua hình ảnh của mặt trời. Ở đây, mặt trời thiên nhiên và mặt trời ẩn dụ cho Bác Hồ xuất hiện. Đây là một so sánh liên tưởng rất giàu ý nghĩa. Hình ảnh thực tế là mặt trời đi qua lăng mỗi ngày, là mặt trời của thiên nhiên, là nguồn sáng lớn nhất, rực rỡ và vĩnh viễn trên thế gian, mang lại ánh sáng và sự sống cho con người. Trong khi đó, hình ảnh ẩn dụ là “mặt trời trong lăng rực rỡ màu đỏ”. Đó là mặt trời của Bác Hồ, nguồn sáng và sự ấm áp, chiếu sáng con đường cách mạng của Việt Nam. Bác là nguồn sống và hạnh phúc cho cả dân tộc. Đọc câu thơ này, người đọc liên tưởng đến những dòng thơ của Tố Hữu: “Mặt trời chân lí chiếu qua tim”.
So sánh Bác như mặt trời thể hiện sự vĩnh hằng của Bác trong lòng dân tộc Việt Nam. Bác giống như mặt trời thiên nhiên hàng ngày vẫn chiếu sáng, vẫn tồn tại cùng dân tộc. Mang ánh sáng đến cho nhân dân. Đồng thời cũng thể hiện lòng biết ơn, tôn kính với người cha già của dân tộc. Trong dòng người vô tận, nhà thơ ví hình ảnh dòng người như tràng hoa đẹp đầy hương thơm và sắc thắm, kính dâng lên Bác:
'Mỗi ngày dòng người vẫn nhớ về Người
Kết tràng hoa thắm, bao mùa xuân'
Điệp ngữ 'mỗi ngày' được lặp lại hai lần trong bài thơ thể hiện sự bền vững của Bác trong lòng người dân Việt. Ngày nào con người vẫn hướng về Người, vẫn nhớ đến sự hy sinh lớn lao của Người cho đất nước. Một tình thương mãi mãi trong tim người, vượt qua mọi trở ngại, trải dài trên cả đoạn thơ, trên mọi không gian và thời gian. Tình thương đó hiện lên như một 'tràng hoa' đầy hương sắc, dâng lên Người. Tràng hoa ở đây không chỉ là hoa thiên nhiên dâng tặng Người mà còn là biểu tượng của tình thương, biết ơn, ngưỡng mộ và sự kính trọng đối với Bác. Hình ảnh 'dâng bảy mươi chín mùa xuân' cho thấy cuộc đời Bác tươi đẹp như mùa xuân, bảy chín năm sống và hiến dâng bảy chín mùa xuân trong cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tràng hoa dành tặng 'bảy chín mùa xuân' là minh chứng cho việc Bác mãi sống trong lòng dân tộc, dân tộc mãi biết ơn và tôn kính Người nhất.
Tóm lại, đoạn thơ với bốn câu nhịp thơ chậm rãi đã thể hiện những suy tư của tác giả về Bác, đã làm cho độc giả hiểu rõ hơn về con người của Người. Người cha già vĩ đại đã dành cả cuộc đời mình cho dân tộc. Đồng thời, bộc lộ tình cảm nhớ thương, sự kính trọng của dân tộc dành cho Bác.
Phân tích về khổ thơ 2 trong bài viếng lăng Bác - Mẫu 5
'Bốn mươi năm trước, Bác đã 'ra đi'
Cả nước trong đau thương, mắt lệ rơi
Ở phía Bắc, mưa dầm - trời biệt ly
Ở phía Nam, gió thổi - đất chia xa'.
Ngày Bác từ trần, toàn dân ta ngập trong biển lệ, biển lệ của nỗi đau thương và tiếc nuối thấm đẫm lòng. Năm năm sau cú sốc lớn ấy, lăng Bác được khánh thành, nơi trở thành điểm hẹn thiêng liêng để mọi người dâng lên lòng kính trọng dành cho Người. Viếng lăng Bác là tác phẩm thể hiện sâu sắc cảm xúc của Viễn Phương khi lần đầu bước chân vào lăng thánh. Có lẽ khổ thơ thứ hai là phần kết tinh sâu nhất tư tưởng của toàn bài thơ:
Ngày ngày mặt trời trôi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rực đỏ
Ngày ngày dòng người đi với lòng nhớ mong
Trải dài tràng hoa qua bảy chín mùa xuân.
Tác giả lúc ấy là con người Nam đến từ miền Bắc, cùng với nhóm người đi lễ vào lăng viếng Người. Khổ thơ đầu tiên tóm gọn cảm xúc của tác giả khi đứng trước lăng với hình ảnh của hàng tre xanh mướt. Trong khổ thơ thứ hai, độc giả cảm nhận được cảm xúc của Viễn Phương khi đồng hành vào lăng viếng Bác.
Suốt khổ thơ là niềm nhớ mãi không phai của tác giả khi đứng trước bậc thềm lăng. Đầu tiên, đó là tấm lòng kính trọng, lòng biết ơn về lãnh tụ được tóm gọn trong hình ảnh ẩn dụ:
'Ngày ngày mặt trời trôi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rực đỏ'.
Mặt trời được nhắc đến lặp lại trong hai câu thơ. Nếu 'mặt trời trôi qua trên lăng' là hình ảnh miêu tả thực tế về việc mặt trời di chuyển qua lăng hàng ngày, gắn với không gian quen thuộc là 'trên lăng', thì 'mặt trời trong lăng' lại là biểu tượng của Bác Hồ. Sử dụng động từ 'thấy' nhấn mạnh vẻ kỳ vĩ của vầng thái dương vũ trụ chứng kiến 'mặt trời trong lăng rực đỏ' với sự ngưỡng mộ, tôn trọng. Mặt trời là biểu tượng của sự kỳ diệu, vĩnh hằng, là nguồn gốc của sự sống và là nguồn ánh sáng cho con người. Bác Hồ cũng như vậy, Người là người cha già vĩ đại, Người vĩnh hằng bởi Người luôn sống trong lòng nhân dân Việt Nam, dẫn dắt cho cuộc cách mạng giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Từ câu 'ngày ngày' ở đầu dòng thơ vừa diễn tả sự bất biến của tự nhiên vừa làm cho hình ảnh của Bác Hồ trở nên bất tử trong tâm trí mọi người. Viễn Phương như là người diễn đạt tấm lòng tôn kính của nhiều người đối với vị lãnh tụ trong suốt cuộc đời:
'Chỉ biết quên mình cho đi hết thảy
Như dòng sông trôi nặng phù sa'
(Tố Hữu)
Trước lăng Bác, cảm xúc của tác giả tràn ngập như làn sóng:
'Ngày ngày dòng người đi với tấm lòng nhớ mong
Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân.'
Nghệ thuật sử dụng cấu trúc 'ngày ngày' khiến đoạn thơ hiện lên như một bản nhạc chậm rãi, với tần suất lặp lại của những người vào viếng lăng Bác như là một nhịp điệu quen thuộc. Hai câu thơ vẽ ra hình ảnh của hàng người xếp hàng, bước chân chầm chậm, đầy nỗi xúc động - 'đi trong thương nhớ'. Dòng người như là 'kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân', mỗi người như một bông hoa, tất cả cùng tạo nên một tràng hoa tuyệt vời, tôn kính dâng lên Bác. Đó là biểu tượng của lòng biết ơn sâu sắc, lòng thành kính, và lòng tiếc thương vô hạn mà nhân dân ta dành cho Bác Hồ. Hoán dụ 'bảy mươi chín mùa xuân' là thể hiện tuổi thọ của Bác, đồng thời cũng là một biểu tượng tôn vinh cuộc sống đẹp đẽ và tinh tế của Bác, cống hiến hết mình cho dân tộc. Câu thơ nhẹ nhàng nhưng chứa đựng nhiều cảm xúc biết ơn, như là chạm vào trái tim của người đọc.
Khổ thơ là cảm xúc của tác giả khi cùng hàng người vào viếng lăng Bác. Nhà thơ sử dụng các hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng có ý nghĩa sâu sắc, làm nổi bật vẻ đẹp của vị lãnh tụ. Đây có thể coi là khổ thơ tóm gọn toàn bộ vẻ đẹp của Bác - người cha già hiến dâng cuộc đời cho non sông, đất nước.
Phân tích về khổ thơ 2 trong bài viếng lăng Bác - Mẫu 6
Trong suốt cuộc đời, Bác luôn nhớ về miền Nam, luôn thương nhớ nơi đây. Đối với Bác, miền Nam là niềm vui, niềm hạnh phúc, nhưng cũng là nỗi đau không nguôi. Miền Nam luôn nằm trong trái tim Bác. Niềm mong mỏi chân thành của Bác là miền Nam sớm được giải phóng, để cả nước sum họp, mọi người có dịp được thăm miền Nam. Và miền Nam cũng như vậy, luôn mong thương nhớ và mong Bác, như nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Bác nhớ miền Nam, niềm nhớ nhà thương”
“Miền Nam nhớ Bác, niềm mong nhớ cha”
Nhưng tiếc thay, khi dân tộc sum họp, Bác đã ra đi. Sự tiếc thương và niềm nhớ Bác của toàn dân và đặc biệt là người miền Nam, đã được nhà thơ Viễn Phương thể hiện một cách sâu sắc, thành kính và thiêng liêng trong bài thơ “Viếng lăng Bác”. Bài thơ không chỉ phản ánh cảm xúc trào dâng của nhà thơ mà còn tôn vinh hình ảnh của lãnh tụ Hồ Chí Minh với hình tượng quen thuộc, giàu sức khái quát và lung linh. Bằng cảm xúc chân thực và lời thơ gợi cảm, Viễn Phương đã thể hiện sự thật “Bác Hồ sống mãi trong lòng nhân dân ta, trong sự nghiệp của Đảng, của nhân dân.”
Mạch cảm xúc của bài thơ chính là cảm xúc chung của dân miền Nam khi viếng lăng Bác. Khi tác giả đứng bên ngoài, cảnh tượng đã làm lòng bồi hồi, xúc động, nhưng khi tiến gần hơn vào lăng Bác, cảm xúc của tác giả được thể hiện rõ hơn qua khổ thơ thứ hai, là cảm xúc của Viễn Phương mất.
“Ngày ngày mặt trời trôi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rực đỏ
Ngày ngày dòng người đi với lòng thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân.”
Trong hai câu thơ đầu tiên, tác giả nhắc đến 2 “mặt trời”. “Mặt trời trên lăng” là ánh sáng thái dương của vũ trụ, là mặt trời thực tế, trong khi “mặt trời trong lăng” là biểu tượng của Bác. Trước đó, nhiều tác giả đã so sánh Bác với mặt trời, như Tố Hữu đã viết:
“Bác tỏa sáng như mặt trời cách mạng
Nhưng đế quốc chỉ là loài dơi hoảng sợ
Bên dưới chân người, chúng bay trong đêm tối”
Tuy nhiên, điều độc đáo và sáng tạo là việc kết hợp các hình ảnh ẩn dụ về 'mặt trời' với phép nhân hóa. Trái với vẻ rực rỡ của mặt trời tự nhiên, việc so sánh Bác với 'mặt trời' không chỉ tôn vinh sự vĩ đại mà còn làm nổi bật tư tưởng sáng láng của Người, thể hiện lòng tôn kính của người dân, của nhà thơ đối với Bác Hồ.
“Ngày ngày mặt trời trôi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rực đỏ”
Giáo sư Trần Đình Sử đã chia sẻ về hai câu thơ đầu trong khổ thứ 2 rằng: 'So sánh Bác với mặt trời là một ý tưởng mới, xuất sắc, chưa từng có. Mặt trời rực đỏ gợi lên hình ảnh của trái tim nhiệt huyết, chân thành, trái tim yêu nước, yêu dân.'
Nhờ tâm hồn chân thành và sự sáng tạo của mình, tác giả đã tạo ra những hình ảnh đẹp và độc đáo, dù dùng những biểu tượng quen thuộc.
Tác giả cũng mô tả từng người khi vào lăng một cách tuần tự:
'Hàng ngày, người ta đi trong niềm nhớ thương
Và tràng hoa dâng lên, bảy mươi chín mùa xuân.'
So sánh với hai câu thơ trên, tác giả sử dụng cụm từ 'hàng ngày' để tả sự liên tục, không ngừng nghỉ của thời gian. Trong vòng xoay không ngừng đó, đoàn người đến viếng lăng Bác. Với hình thức thơ 8 chữ, tác giả đã mở rộng câu cuối của khổ thơ thứ hai thành 9 chữ, tạo ra một đoạn thơ dài hơn, tăng sự chậm rãi và sự sáng tạo. Tâm trạng của đoàn người khi vào lăng viếng Bác được miêu tả cảm xúc và chân thành, với từ ngữ giàu cảm xúc. Tình cảm nhớ thương của nhân dân không bao giờ phai nhạt, như thời gian luôn tiếp tục. Mỗi người là một bông hoa, còn đoàn người là một tràng hoa dâng lên Bác.
Phân tích khổ 2 bài viếng lăng Bác - Mẫu 7
Viễn Phương là một trong những nhà thơ tiêu biểu đã chứng kiến và tham gia hoạt động trong cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Ông đã nhìn thấy sự kiên cường và chiến thắng vẻ vang của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, trong niềm vui trọng đại của đất nước, lòng tiếc thương vô hạn của nhân dân không thể thiếu vắng vị lãnh tụ vĩ đại. Vì thế, bài thơ 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương là một lời tôn vinh, biểu dương và biết ơn sâu sắc đối với công lao to lớn của Bác Hồ.
Bài thơ 'Viếng lăng Bác' được Viễn Phương sáng tác vào tháng 4 năm 1976, sau khi quân đội ta đã chiến đấu mạnh mẽ và giành chiến thắng ấn tượng trong cuộc chiến chống Mỹ, giải phóng toàn bộ dân tộc Việt Nam. Lúc này, nhân dân bắt đầu xây dựng lăng tưởng niệm Bác Hồ như một di tích để ghi nhận và tôn vinh kỷ niệm lịch sử quan trọng này.
Trong một chuyến viếng thăm Lăng Bác ở Bắc, nhà thơ Viễn Phương đã sáng tác bài thơ này để bày tỏ lòng tôn kính và biết ơn sâu sắc đối với Bác Hồ.
Trong khổ thơ thứ hai của bài Viếng lăng Bác, tác giả tận dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ để mô tả Bác Hồ như một nguồn sáng của nhân loại, để nhấn mạnh sự đặc biệt mà Bác đã mang lại cho dân tộc Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại.
Tác giả Viễn Phương kết hợp hình ảnh thực tế với nghệ thuật ẩn dụ để so sánh Bác Hồ với mặt trời, biểu tượng của sự sáng sủa cho cả nước Việt:
“Mỗi ngày mặt trời lặp đi lặp lại trên lăng
Thấy một Bác Hồ tỏa sáng, rực rỡ trong lòng dân.”
Trong hai câu thơ trên, từ 'mỗi ngày' được tác giả khéo léo sử dụng để thể hiện sự liên tục không ngừng của thời gian, biểu thị sự vĩnh cửu.
Cùng với biểu tượng ẩn dụ 'mặt trời', tại sao tác giả Viễn Phương lại chọn 'mặt trời' để so sánh với hình ảnh của Bác Hồ? Bởi vì mặt trời là nguồn sáng sống vô tận của loài người, nhờ ánh sáng của mặt trời mà con người mới có thể thấy được ánh sáng và hoạt động. Tương tự, nhờ có 'ánh sáng Cách mạng' của Bác, dân tộc ta mới có thể thấy rõ đường đi đúng đắn và thoát khỏi ách đô hộ của bọn giặc tàn ác.
Do đó, tác giả đã sử dụng hình ảnh mặt trời to lớn và vĩ đại nhất để biểu hiện lòng biết ơn và ca ngợi ánh sáng vĩnh hằng của Bác, đã dẫn dắt dân tộc ta vượt qua khó khăn, giành lại độc lập và mang lại cuộc sống mới cho đất nước.
Dù Bác Hồ hiện chỉ là 'thân xác' nằm yên trong lăng, nhưng linh hồn và hình ảnh của Người vẫn như 'mặt trời' luôn soi sáng 'ánh sáng' của niềm tin và yêu nước, để hướng dẫn những cuộc Cách mạng trong tương lai của dân tộc ta.
Trong hai câu thơ trước, tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ và hình ảnh 'mặt trời' để tôn trọng và biểu đạt lòng kính trọng sâu sắc đối với Bác. Trong hai câu thơ sau, Viễn Phương tiếp tục sử dụng điệp ngữ để tôn vinh sự vĩnh cửu và trường tồn của Bác trong lòng dân từ khắp nơi đến thăm viếng Người.
'Hàng ngày, dòng người đi với lòng nhớ thương
Kết hoa thành tràng, dâng Bác bảy mươi chín mùa xuân'
Biện pháp nghệ thuật điệp ngữ 'ngày ngày' được sử dụng trong câu thơ để chỉ sự liên tục lặp đi lặp lại, không có hồi kết. Bởi cho đến ngày nay, dù đất nước đã hoàn toàn sống trong tự do và hạnh phúc, nhưng vẫn chẳng ai quên được nỗi đau lớn nhất trong ngày hạnh phúc nhất của dân tộc, đó là Bác đã ra đi vĩnh viễn vào năm 1969. Một tay Bác đã dày công đi khắp nơi để tìm ra chân lý Cách mạng và đường lối chiến đấu đúng đắn cho dân tộc, một tay Bác đã chỉ đạo những trận đánh lớn để quân giặc nể sợ trí tuệ và tài năng của người Việt Nam, và chính Bác trong những ngày 'gần đất xa trời' vẫn không quên quan tâm đến tình hình chiến sự của đất nước.
Vậy nên, Bác đã dành cả cuộc đời để yêu nước, yêu dân mà không một chút nào nghĩ đến quyền lợi của bản thân. Giờ đây, những gì dân Việt có thể làm cho Bác chỉ là dòng người 'ngày ngày' đến lăng, mỗi người cầm trên tay một bông hoa, hàng trăm hàng nghìn người ghép lại thành một 'tràng hoa' lớn dâng lên Bác, để tưởng nhớ và biết ơn cho những gì Bác đã hy sinh cho Tổ quốc.
Tác giả tinh tế sử dụng hình ảnh ẩn dụ 'tràng hoa' từ đoàn người đổ về lăng viếng Bác. Có thể thấy từ ngày lăng Bác được khánh thành trong niềm vui tiếc của dân, chưa có một ngày nào mà không có người đến lăng thăm Bác. Dù thế hệ hiện tại chưa được nhìn thấy Bác 'bằng xương bằng thịt' như ông bà cha mẹ, nhưng những huyền thoại về Bác vẫn luôn là 'ngọn đuốc sáng' soi đường cho 'mầm non' tương lai.
Ngoài ra, tác giả còn dùng hình ảnh hoán dụ 'bảy mươi chín mùa xuân' để chỉ số tuổi của Bác, mỗi năm Bác sống là mỗi mùa xuân của đất nước Việt Nam. Đó cũng là biểu hiện của lòng biết ơn với công lao to lớn của Bác, Người đã dành 79 năm xuân của mình để cống hiến cho độc lập tự do của đất nước.
Khổ thơ thứ hai trong bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương chính là phần cảm động nhất, thể hiện rõ sự vĩnh hằng và trường tồn của Bác Hồ trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Tác giả đã sử dụng từ ngữ trân trọng và tôn kính nhất kết hợp cùng với biện pháp tu từ đặc sắc để ca ngợi và biểu đạt lòng biết ơn, tôn trọng đối với Bác Hồ. Vậy nên, là thế hệ trẻ, chúng ta nên tiếp bước, kế thừa và phát huy những bài học và phẩm chất quý báu mà Bác đã để lại, để góp phần hoàn thiện bản thân và trở thành những người có ích cho đất nước.
Khám phá sâu hơn về hành trình của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã là người định hình nên con đường cứu nước, vĩnh biệt của một dân tộc. Hình ảnh của Người vẫn mãi sống trong lòng mỗi người con Việt Nam. Có rất nhiều tác phẩm sâu sắc và xúc động viết về Chủ tịch. Trong số đó, bài thơ “Trong lăng Bác” của Viễn Phương là một trong những tác phẩm nổi bật. Tác phẩm đã diễn đạt được cảm xúc sâu thẳm của thi sĩ khi đến thăm lăng của Chủ tịch. Ở khổ thơ thứ hai, tác giả đã phản ánh tâm trạng của mình khi bước vào lăng viếng Bác.
“Mỗi ngày, mặt trời lướt qua trên mái lăng
Đỏ mặt trời nằm im bên trong”
Ngay từ câu đầu tiên, chúng ta nhận thấy từ “mỗi ngày” biểu thị cho sự lặp lại của thời gian. Nếu “mặt trời lướt qua trên mái lăng” là hình ảnh của mặt trời tự nhiên mọc lên và khuất đi, tỏa ra sự ấm áp cho mọi sinh vật, thì “mặt trời bên trong” lại là biểu tượng tượng trưng cho Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đó là mặt trời đã khám phá ra con đường cho cuộc cách mạng, giúp dân tộc thoát ra khỏi những khó khăn. Hình ảnh này khiến chúng ta nhớ đến những câu trong bài thơ “Ru cho những đứa trẻ lớn lên trên lưng mẹ”: “Mặt trời của cỏ được đặt trên đồi/Mặt trời của mẹ em lại nằm trên lưng”. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng sử dụng hình ảnh mặt trời tự nhiên để nhấn mạnh rằng đứa trẻ là nguồn sức mạnh duy nhất trong tấm lòng của người mẹ. Nhà thơ Viễn Phương cũng như vậy, đặt hình ảnh mặt trời để chỉ rõ Chủ tịch, qua đó tôn vinh lý tưởng và công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với quê hương. Đồng thời, tác giả muốn khẳng định rằng Chủ tịch là mặt trời vĩnh cửu không bao giờ tắt của thời gian.
Hai câu thơ tiếp theo thể hiện lòng kính yêu của người dân Việt Nam dành cho Chủ tịch
“Hàng ngày, dòng người trôi qua trong lòng nhớ thương
Một dãy hoa tươi sáng bảy mươi chín mùa xuân…”
Điệp từ “Hàng ngày” khơi gợi cho chúng ta cảm nhận rõ sự luân phiên của thời gian. Mỗi ngày, dòng người vẫn trôi qua “trong lòng nhớ thương”. Họ không chỉ trôi qua mà còn biểu hiện sự tôn kính, lòng biết ơn không ngừng nghỉ đối với Bác. Đó là những bước chân của hàng triệu con người, từ mọi miền Tổ quốc. Họ cùng nhau tạo thành một “dãy hoa” lớn để dành tặng Người. Hình ảnh “dãy hoa” không chỉ đơn giản là lẵng hoa mà còn là biểu tượng của dòng người mang đến lăng viếng Bác. Tác giả sử dụng tu từ hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” để nhắc nhở về sự cống hiến, hy sinh của Bác trong suốt bảy mươi chín năm. Đồng thời, ông khẳng định rằng tình yêu thương với Người sẽ mãi mãi không phai nhạt, như mùa xuân vĩnh viễn. Câu thơ cuối kéo dài thành chín chữ, nhịp thơ chậm, dấu chấm lửng như kéo dài dây nối cảm xúc, tạo nên một giọng điệu trầm lắng, thiết tha và chân thành của nhà thơ.
Bằng cách sử dụng các biện pháp ẩn dụ độc đáo, Viễn Phương đã làm cho độc giả cảm nhận được tình yêu dành cho Bác. Khổ thơ thứ hai, nhưng cả bài thơ nói chung, đều chứa đựng tình cảm yêu thương sâu sắc nhất dành cho Người cha kính yêu. Và chắc chắn rằng, hình ảnh về Bác sẽ tiếp tục sống mãi trong trái tim của hàng triệu con người Việt Nam.
Cảm nhận ý nghĩa của khổ thứ hai trong bài thơ Viếng lăng Bác
Sau khi đất nước giành được độc lập, một năm sau đó, Viễn Phương và đoàn cán bộ miền Nam mới có cơ hội đến thủ đô Hà Nội viếng thăm lăng của Bác. Biết bao nỗi nhớ mong đong đầy suốt thời gian qua khiến nhà thơ tràn ngập cảm xúc khi đứng trước lăng Người. Đây là lần đầu tiên nhà thơ gặp gỡ vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Tình cờ gặp gỡ đặc biệt càng khiến cho nhà thơ chứng kiến những xúc động sâu lắng. Khổ thứ hai của bài thơ Viếng lăng Bác đã thể hiện một cách đầy đủ tình cảm yêu mến và tự hào của nhà thơ đối với Bác Hồ, đối với dân tộc. Từ hình ảnh hàng tre kiên cường, nhà thơ tưởng niệm về Người với lòng kính trọng vô hạn:
“Hàng ngày, mặt trời ló dạng qua bức màn mây
Một mặt trời đỏ rực hiện hữu trong lăng
Hàng ngày, dòng người đi mang theo nỗi nhớ thương
Hòa vào dải hoa dâng tặng bảy mươi chín mùa xuân…”
Có thể thấy, khổ thơ thứ hai tiếp tục lời thể hiện mạch cảm xúc từ khổ thơ đầu tiên, tỏ ra xúc động, lòng thành kính và thiêng liêng của nhà thơ khi đứng trước lăng. Hai dòng thơ đầu tiên, nhà thơ sử dụng hình ảnh thực và ẩn dụ để miêu tả sự vĩ đại của Bác, lòng tôn kính của mình dành cho Người. Hai dòng thơ sau, tác giả sử dụng so sánh ngầm mới mẻ để diễn đạt lòng tiếc thương, sự gắn bó của nhân dân với Bác. Khi đoàn người vào viếng lăng Bác, nhà thơ nhìn thấy:
“Hàng ngày, mặt trời ló dạng qua bức màn mây
Một mặt trời đỏ rực hiện hữu trong lăng”
Mặt trời “hàng ngày ló dạng qua bức màn mây” là biểu tượng của thiên nhiên vũ trụ, nguồn sáng lớn nhất, rực rỡ và vĩnh cửu của thế giới. Nhưng mặt trời đó còn thấy và nhận ra một mặt trời khác, “một mặt trời đỏ rực hiện hữu trong lăng”. Mặt trời trên cao được nhân hoá, nhìn “mặt trời trong lăng” bằng đôi mắt của lòng ngưỡng mộ và nhân từ. Một hình ảnh chứa đựng bao sự tôn kính đối với Bác Hồ vĩ đại!
Bằng hình ảnh ẩn dụ, nhà thơ đã so sánh Bác với mặt trời. Người là mặt trời đỏ rực sắc màu cách mạng sẽ luôn chiếu sáng con đường chúng ta bằng sự nghiệp của Người. Người là nguồn nhiệt độ vô tận, là nguồn sáng vĩnh cửu soi đường chúng ta đi. Người là sự kết hợp tinh túy của trời đất và tỏa sáng tương lai. Đây là một nét nghệ thuật ẩn dụ đầy sáng tạo của tác giả. Hình ảnh ẩn dụ: “Mặt trời đỏ rực hiện hữu trong lăng” không chỉ nói lên sự vĩ đại của Bác Hồ, mà còn khen ngợi công lao to lớn của Người và thể hiện lòng tôn kính của nhân dân, của tác giả dành cho Bác.
Độc đáo hơn, nhà thơ còn sáng tạo một hình ảnh khác để khen ngợi Bác.
“Hàng ngày, dòng người đi mang theo nỗi nhớ thương
Hòa vào dải hoa dâng tặng bảy mươi chín mùa xuân…”
Hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ lại biến thành những dải hoa, không chỉ là biểu tượng thực tế so sánh những dòng người xếp hàng dài vào lăng viếng Bác, mà còn là biểu tượng tượng trưng: cuộc đời của họ đã nở hoa dưới ánh sáng của Bác, đó là hoa của chiến công, hoa của thành tựu, hoa của tình người.
Những bông hoa tươi thắm đang dâng lên Người những điều tốt đẹp nhất. Dâng lên bảy mươi chín năm tuổi đẹp như bảy mươi chín mùa xuân và đã tạo ra những mùa xuân cho đất nước, cho con người của Bác. Hình ảnh hoán dụ này vừa đẹp vừa mới mẻ, thể hiện tình cảm thương nhớ, tôn trọng và sự gắn bó của nhân dân với Bác.
Mặc dù không có lời ca ngợi nào, nhưng thông qua ý nghĩa khổ thơ thứ hai của bài thơ Viếng lăng Bác, người đọc có thể cảm nhận được lòng kính trọng không biên giới và sự tôn vinh tối cao mà nhà thơ dành cho người lãnh đạo vĩ đại Hồ Chí Minh, người cha già kính yêu của dân tộc. Đằng sau những hình ảnh lớn lao và chói lọi là niềm tiếc thương, nỗi nhớ mong và nỗi đau của hàng triệu con người trước sự ra đi của Bác. Dù biết rằng cuộc đời phù phiếm, nhưng nhà thơ không thể nén lại được cảm xúc của mình. Ý chí cách mạng đã giúp nhà thơ không rơi lệ, không giấu đi nỗi buồn, mà tiếp tục khẳng định sự quyết tâm của mình trong việc bảo vệ độc lập quốc gia, sống đáng với những hi vọng mà Bác đã truyền dạy cho dân tộc trước khi ra đi mãi mãi.