Tóm tắt đoạn văn Hoàng Lê nhất thống chí bao gồm 9 ví dụ hay nhất, đặc sắc nhất, kèm theo dàn ý chi tiết, nhằm khuyến khích trí tưởng tượng và sự sáng tạo của học sinh lớp 9 ngày càng phát triển.
Đoạn văn Hoàng Lê nhất thống chí cũng giúp các em cảm nhận rõ hơn về sự hào hùng của người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ trong chiến công đánh tan quân Thanh. Mời các em tham khảo bài viết dưới đây của Mytour để có nhiều ý tưởng mới, giúp học môn Văn 9 hiệu quả hơn:
Dàn ý Tóm tắt Hoàng Lê nhất thống chí
1. Giới thiệu
Giới thiệu về tác giả và tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí, trích đoạn từ hồi thứ 14: Đánh Ngọc Hồi, khi quân Thanh thất bại rời khỏi Thăng Long, Chiêu Thống tẩu thoát ra ngoài.
2. Nội dung chính
- Quân Thanh chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế:
- Vua Nguyễn Huệ quyết đoán và mạnh mẽ trong hành động.
- Khi biết Thăng Long bị giặc chiếm, Nguyễn Huệ không lưỡng lự mà tự dẫn quân ra chiến trường.
- Với trí tuệ sáng suốt, Nguyễn Huệ đã thực hiện nhiều chiến công lớn chỉ trong một tháng.
- Hành quân nhanh chóng và chiến thắng vĩ đại của vua Quang Trung:
- Vua Quang Trung hùng dũng khi ra trận, quân binh mạnh mẽ như thần.
- Với ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trải, vua là tướng lĩnh thực sự của chiến dịch.
- Sự thất bại to lớn của quân tham nhà Thanh và tình hình thảm hại của vua Lê Chiêu Thống:
- Quân Tây Sơn tiến công, tướng Thanh sợ mất quyền lực, quân lính sợ trận chiến nên xin hàng hoặc bỏ chạy.
- Lê Chiêu Thống và đám thân tín đặt số phận của đất nước và kẻ thù xâm lược, chịu hậu quả bi thảm của một triều đình suy tàn.
3. Tóm tắt
Phản ánh cảm nhận về hình ảnh anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ và thất bại của quân Thanh cùng số phận bi đát của Lê Chiêu Thống.
Tóm tắt ngắn gọn về Hoàng Lê nhất thống chí
Ngay khi nghe tin quân Thanh chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ tức giận, họp các tướng sĩ để quyết định ra trận ngay, nhưng được quần thần khuyên nên kiên nhẫn để thu phục lòng dân trước khi tiến hành dẹp loạn. Bắc Bình Vương sau khi nghe tin đã lập tức lên ngôi vua, niên hiệu Quang Trung. Ngày 25-12-1788 (âm lịch), quân Tây Sơn xuất quân ra Bắc, trong một tháng Nguyễn Huệ đã tổ chức đại binh, tuyển mộ lính, tổ chức duyệt binh ở Nghệ An, và lập kế hoạch chiến đấu và đối phó với quân Thanh sau khi giành chiến thắng. Lời kêu gọi của vua tới quân lính ở Nghệ An:
- Quân Thanh tiến đánh, dự định chiếm lấy miền Nam làm địa bàn của họ. Để phá vỡ âm mưu của họ, chúng ta cần hợp sức để thực hiện một sự nghiệp vĩ đại.
Vào đêm 30 tháng Chạp, quân Tây Sơn tiến quân đến Thăng Long. Vua Quang Trung tự lãnh đạo cuộc tấn công, dẫn đầu quân lính, và vượt qua kẻ thù bằng mưu đồ và chiến lược. Dưới sự lãnh đạo tài ba của vua Quang Trung, quân đội đã chiến thắng quân địch, bắt sống các đội do thám của quân Thanh, vây kín làng Hà Hồi, tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, tạo nên tinh thần chiến đấu khiến quân Thanh khiếp sợ. Tướng Thanh lo sợ mất quyền lực và lập tức tháo chạy, lính Thanh xin hàng và bỏ chạy. Vua Lê Chiêu Thống và các quan tham đã phải chạy trốn, cướp thuyền của dân để vượt sông và trải qua những ngày đói khát.
Kết thúc, quân Tây Sơn giành chiến thắng, không chỉ đánh đuổi quân Thanh mà còn đàn áp lũ quan phản dân. Chiến công vĩ đại của vua Quang Trung là nguồn tự hào của cả dân tộc.
Tóm tắt hay nhất về Hoàng Lê nhất thống chí
Ngày 24 tháng Chạp 1788, khi nghe tin quân Thanh chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ tức giận và lập tức đắp đàn ở núi Bân, tế cáo trời đất. Sau đó, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế và lập tức ra lệnh xuất quân. Ngày 25, quân đại binh cả bộ lẫn thủy ra Bắc, đến ngày 29 đến Nghệ An. Tại đây, Nguyễn Huệ gặp cống sĩ Nguyễn Thiếp và kén lính. Trong thời gian ngắn, Nguyễn Huệ đã tập hợp được hơn vạn binh tinh nhuệ, sau đó tổ chức duyệt binh lớn và chia quân thành bốn đoàn. Vua Quang Trung dẫn đầu quân ra chiến trường và kêu gọi quân lính rằng:
- Nay quân Thanh đang lên kế hoạch chiếm lấy Thăng Long để biến nước ta thành quận huyện của chúng. Hãy cùng ta đánh đuổi chúng.
Hôm sau, vua Quang Trung ra lệnh tiến quân đến núi Tam Điệp. Các tướng sĩ đều tỏ ra sẵn lòng chịu trách nhiệm. Vua ca ngợi các tướng sĩ và nhấn mạnh về tài năng của họ trong chiến trận. Sau đó, vua tổ chức tiệc mừng và vào đêm mùng 30 Tết, quân ra đường. Họ hứa vào mồng 7 năm mới sẽ nhập thành Thăng Long và mở tiệc ăn mừng. Mọi nơi mà quân Tây Sơn đi qua, quân Thanh đều bị hoảng loạn và chạy trốn. Quân Tây Sơn đã chiếm được lương thực và vũ khí từ đồn Hà Hồi và Ngọc Hồi. Vua đã tổ chức các nhóm lính mang theo ván lớn lấp đường và dẫn đầu chiến hạm. Trên đường đi, quân Thanh không còn cách nào khác ngoài việc chạy trốn, và một lần nữa, họ đã bị đánh bại. Khi quân Tây Sơn tiến vào thành, Tôn Nghị Sĩ cũng phải chạy trốn, còn vua Lê trong cung cũng phải cướp thuyền để qua bờ bắc. Đó là số phận của những kẻ phản dân và vong quốc.
Tóm lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 1
Lịch sử Việt Nam là câu chuyện của sự kiện đấu tranh chống lại quân thù ngoại xâm. Trận Bạch Đằng lừng lẫy của Ngô Quyền, sự vĩ đại của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ đã ghi dấu trong lịch sử dân tộc.
Quân Thanh xâm lược và chiếm đóng nước ta, gây ra nhiều tội ác và làm dân ta gánh chịu cảnh khốn khổ. Họ lợi dụng quyền lực để cướp bóc tài sản của dân, sống xa hoa trên đất nước ta. Điều này đã đưa đất nước ta vào cảnh thống trị và dân chúng vào cảnh gian khổ.
Bọn tướng lĩnh nhà Thanh, do chiếm lãnh địa quá dễ dàng, không phòng thủ kỹ càng. Sử dụng điều đó, Nguyễn Huệ nghe tin tức, ngay lập tức quyết định tiến hành một chiến dịch nhanh chóng để tiêu diệt toàn bộ quân Thanh khỏi lãnh thổ Nam nước. Nguyễn Huệ tế cáo trời đất, sau đó lên ngôi hoàng đế, lựa chọn niên hiệu là Quang Trung. Vua Quang Trung tự mình chỉ huy quân lính cả trên đường thủy và đường bộ, không nghỉ ngơi ngày đêm. Ngày 28 quân đến Nghệ An, ông tìm gặp La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp để lắng nghe ý kiến. Nghe xong, vua Quang Trung vô cùng vui mừng, ngay lập tức mở cuộc chiêu binh, tuyển thêm lính, cứ ba người tuyển một người lính. Hành động này chứng tỏ ông là một vị vua quyết đoán, nhanh nhạy, biết trọng dụng tài năng. Vua còn khuyến khích tinh thần của các chiến sĩ. Hôm sau, khi hội quân ở Tam Điệp, ông đã thưởng phạt một cách công bằng các binh lính. Ông đã biết sử dụng tội lỗi thành cơ hội để sửa chữa, chứng tỏ mình là một người anh minh, sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng, biết tận dụng người tài! Vua Quang Trung đề ra chiến lược, vạch ra kế hoạch cụ thể, chia quân ra thành năm đội: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Ông phân quân cũ cho các tướng còn tự mình chỉ huy số quân mới tuyển để những người lính mới yên tâm chiến đấu, cho binh lính, cho tướng sĩ ăn Tết sớm và xuất quân vào ngày 30 Tết.
Quân Tây Sơn tiến đến sông Gianh, đánh tan tác quân Thanh. Đội quân thần tốc tiến lên bắt gọn đám quân Thanh do thám. Do quân Tây Sơn di chuyển nhanh chóng và bắt giữ được đám quân do thám, quân Thanh từ Hà Hồi tới Thăng Long không biết gì về hoạt động của quân Tây Sơn. Nửa đêm mồng 3, quân Tây Sơn đến làng Hà Hồi. Dưới sự lãnh đạo tài tình của vua Quang Trung, quân bao vây làng và sau đó dùng loa kêu gọi quân Thanh đầu hàng. Quân Thanh bất ngờ và sợ hãi trước sự áp đặt quá nhanh của quân Tây Sơn, không kịp phản kháng, vội vàng ra hàng và để mất toàn bộ lương thực, vũ khí vào tay quân Tây Sơn. Càng về sau, vua Quang Trung càng chứng minh được sự tài dụng binh như thần, cách tiến công đầy mưu trí, khéo léo, không chỉ làm hao mòn lực lượng mà còn đạt được chiến thắng nhanh chóng. Vua Quang Trung đề xuất dùng 60 tấm ván ghép thành bức tường, cứ ba tấm ghép lại thành một bức, ngoài cùng phủ rơm và dấp nước.
Giữa trưa hôm đó, vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long và sau đó tiến vào thành. Tôn Sĩ Nghị và bọn quan nhà Lê không hay biết gì, vẫn tiếp tục yến tiệc linh đình. Đến mồng 4, họ mới nhận được thông báo từ đồn Ngọc Hồi. Khi quân Tây Sơn xông vào, sợ lộ tin, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, phải vội vã bỏ trốn. Mất lãnh đạo, quân Thanh không tránh khỏi sự hỗn loạn, mỗi người chạy một hướng, tàn phá như ong vỡ tổ. Quan vương nhà Lê cũng phải gánh chung số phận bi thảm, phải rời bỏ đất nước, chạy trốn sang Trung Quốc. Vậy là chỉ trong mấy ngày ngắn ngủi, quân Tây Sơn đã đạt được chiến thắng lớn, xua đuổi bọn xâm lược, bảo vệ lãnh thổ, mang lại độc lập cho đất nước.
Chiến công thần tốc tiêu diệt quân Thanh đã tạo ra một dấu ấn lịch sử vẻ vang, đã viết thêm một trang vàng rực rỡ cho lịch sử đất nước. Qua đó, chúng ta thấy được sức mạnh đoàn kết của quân nhân và hình ảnh anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ. Các đại anh hùng đã đóng góp vào việc giữ vững đất nước trước kẻ thù ngoại xâm, và thế hệ chúng ta ngày nay phải bảo vệ và phát triển đất nước hơn nữa.
Bọn tướng lĩnh nhà Thanh, do chiếm lãnh địa quá dễ dàng, không phòng thủ cẩn thận. Sử dụng điều đó, Nguyễn Huệ vừa mới nghe tin tức, liền quyết định thực hiện một chiến dịch nhanh chóng để tiêu diệt hoàn toàn quân Thanh khỏi lãnh thổ phía Nam. Nguyễn Huệ kêu oan trời đất, sau đó lên ngôi vị hoàng đế, chọn niên hiệu là Quang Trung. Vua Quang Trung tự mình chỉ huy quân lính cả trên đường thủy lẫn đường bộ, không nghỉ ngơi ngày đêm. Ngày 28 đến Nghệ An, ông tìm gặp La Sơn Phu con Nguyễn Thiếp để lắng nghe ý kiến. Nghe xong, vua Quang Trung vô cùng vui mừng, liền mở cuộc tuyển binh, tuyển thêm lính, cứ ba người tuyển một người lính. Hành động này chứng tỏ ông là một vị vua quyết đoán, nhanh nhạy, biết trọng dụng tài năng. Vua còn khích lệ tinh thần của các chiến sĩ. Hôm sau, khi hội quân ở Tam Điệp, ông đã thưởng phạt một cách công bằng các binh lính. Ông đã biết sử dụng tội lỗi thành cơ hội để sửa chữa, chứng tỏ mình là một người anh minh, sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng, biết tận dụng người tài! Vua Quang Trung đề xuất dùng 60 tấm ván ghép thành bức tường, cứ ba tấm ghép lại thành một bức, ngoài cùng phủ rơm và dấp nước.
Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 2 (Phiên bản Sửa đổi)
Cuối năm Mậu Thân (1788), nhân dân Thăng Long và Bắc Hà phải trải qua những ngày đau khổ, uất ức vì nạn xâm lược từ bên ngoài. Tận dụng việc nhờ sự trợ giúp của Lê Chiêu Thống, 290 nghìn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy đã xâm nhập và chiếm đóng kinh đô cùng một phần lớn vùng đất Bắc Hà. Quân Tây Sơn, dưới sự chỉ huy của tướng Ngô Văn Sở, đã lùi về phía Tam Điệp - Biện Sơn theo kế sách chiến lược của tiến sĩ Ngô Thì Nhậm.
Sau khi đạt được chiến thắng tương đối dễ dàng, Tôn Sĩ Nghị tỏ ra khá tự mãn. Ông ra lệnh cho quân lính tạm thời rút về Thăng Long để nghỉ ngơi và chuẩn bị kỹ lưỡng, hứa hẹn sẽ 'tiến vào lõi sâu của kẻ thù, bắt giữ Nguyễn Huệ sống' (Hoàng Lê nhất thống chí). Ông đặt trại lớn tại cung Tây Long ven sông Nhị và triển khai lực lượng phòng thủ xung quanh Thăng Long, đặc biệt là tại các hướng có thể bị quân Tây Sơn tấn công bất ngờ. Trên hai hướng phòng thủ này, các đồn Ngọc Hồi và Đống Đa được tập trung làm trung tâm phòng ngự.
Trong những ngày gần tết năm đó, nhân dân Thăng Long đã chứng kiến những tội ác của quân giặc: ''sử dụng mọi biện pháp để hành hạ những người trung thực, áp bức, cướp bóc những tài sản của người giàu có, thậm chí ngay giữa đường phố cũng xảy ra cướp giật, hãm hiếp phụ nữ, không có bất kỳ sự kính trọng nào'; và sự phản bội của những kẻ bán nước: ''quốc gia ta từ khi có vị vua, đã không bao giờ có một vị vua nào khuất phục như thế' (Hoàng Lê nhất thống chí).
Tuy nhiên, tại Phú Xuân, vào ngày 24 tháng 11 Mậu Thân (21/12/1788) Quang Trung nhận được thông tin báo cáo và ngày sau đó đã tiến hành lễ xuất quân. Với những dự đoán và chuẩn bị được tiến hành trước đó, chỉ trong vòng 35 ngày từ ngày 25/11 đến 30/12 Mậu Thân (22/12/1788 - 25/1/1789), trên đường di chuyển và tập kết lực lượng tại Tam Điệp, Quang Trung đã hoàn thành mọi công việc chuẩn bị cho chiến dịch tấn công mạnh mẽ vào quân Thanh. Vào đêm giao thừa Tết Kỷ Dậu, quân Tây Sơn đã tấn công bất ngờ đồn trước của quân giặc tại Gián Khẩu, cách Thăng Long khoảng 90 km, khởi đầu cho cuộc tấn công quân Thanh. Sau 5 ngày đêm tiến công nhanh chóng, đạo quân chính của Quang Trung đã phá vỡ hệ thống phòng ngự của kẻ thù trên hướng đường thiên lý tiến về Thăng Long. Vào sáng mùng 5 Tết (30/1/1789), đạo quân chính của Quang Trung phối hợp với đội quân của Bảo công đã tấn công và tiêu diệt toàn bộ quân Thanh tại Ngọc Hồi - Đầm Mực.
Đồng thời, đội quân dưới sự chỉ huy của đô đốc Long bất ngờ tấn công và tiêu diệt đồn Đống Đa, sau đó đột nhập sâu vào đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị tại cung Tây Long.
Sự kết hợp giữa hai trận đánh tại Ngọc Hồi và Đống Đa khiến Tôn Sĩ Nghị bị sốc và lâm vào tình trạng hoàn toàn bất lực, sụp đổ. Với một lực lượng dự bị lớn tại tổng hành dinh, quân Thanh đã phải tháo chạy trong cảnh hoảng loạn và tan rã. Trên đường chạy trốn, chúng lại bị một đội quân Tây Sơn khác chặn đánh ở vùng Yên Thế, Phượng Nhãn, Lạng Giang và gánh chịu thêm những tổn thất nặng nề. Sau 35 ngày chuẩn bị trên đường hành quân dài hơn 500 km từ Phú Xuân đến Tam Điệp và 5 ngày đêm tiến công tiêu diệt trên một tuyến phòng ngự dài hơn 90 km từ Gián Khẩu đến Thăng Long, quân Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Quang Trung đã đạt được mức kỷ lục về tốc độ trong chuẩn bị và tiến công đánh địch.
Chiến thắng lịch sử tại Thăng Long trong xuân Kỷ Dậu 1789 là một trong những thành tựu vĩ đại nhất trong lịch sử kháng chiến chống xâm lược của dân tộc Việt Nam.
Đó là một chiến thắng biểu tượng cho sự phát triển và thành công của phong trào Tây Sơn, được thể hiện thông qua sức mạnh đồng lòng của nông dân kết hợp với ý chí yêu nước và sự đoàn kết của toàn dân tộc. Trong hàng ngũ quân đội Tây Sơn, có những người tham gia từ Tây Sơn, có những người là dân tộc Tây Nguyên yêu tự do, có những người từ khắp nơi trong đất nước đều tự nguyện đứng dưới cờ nghĩa Tây Sơn, có cả những nhà nghiên cứu yêu nước như Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thiếp... và những tướng quân Tây Sơn như Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết, các nhà lãnh đạo đã tham gia nhiều trận chiến như Đặng Tiến Đông.
Đó là một chiến thắng của quân đội Tây Sơn với quyết tâm và ý chí không thể lật đổ, không thể thâm nhập, không thể phá vỡ. Ý chí đó đã được sự giúp đỡ của toàn dân tộc. Như chúng ta đã biết, trên con đường chiến đấu của quân Tây Sơn, nhân dân đã động viên con em tham gia nghĩa quân, cung cấp lương thực, hỗ trợ vượt sông...
Nhân dân ở các làng xã xung quanh Thăng Long đã hỗ trợ quân Tây Sơn giấu giếm binh lính để tiến hành các cuộc tấn công bất ngờ vào các đồn giặc, đồng thời cung cấp ván gỗ để sử dụng trong việc phá đền Ngọc Hồi và tham gia vào việc tổ chức các trận rồng lửa trong cuộc chiến diệt địch ở Đống Đa...
Với chiến thuật thần tốc và sự sắp xếp thế trận thông minh, kết hợp giữa tấn công chính diện mạnh mẽ cùng những cuộc tấn công bất ngờ từ phía sau, Quang Trung với lực lượng chỉ hơn 10 vạn người đã đẩy Tôn Sĩ Nghị và quân Thanh với hơn 29 vạn binh lính vào tình thế bị động, bất ngờ và cuối cùng phải chịu thất bại, hoảng loạn tháo chạy. Chiến thắng Xuân Kỷ Dậu (1789) là minh chứng cho tài năng quân sự vượt trội của Quang Trung Nguyễn Huệ.
Ngay sau khi chiến tranh kết thúc với chiến thắng, Quang Trung đã ủy quyền cho Ngô Thì Nhậm và Phan Huy ích sử dụng mọi phương tiện ngoại giao một cách khôn ngoan và tích cực để nhanh chóng khôi phục quan hệ hòa bình với nhà Thanh. Chỉ trong vòng nửa năm, hai bên đã thực hiện việc trao đổi thư tín và sau đó, quan hệ ngoại giao và thương mại giữa hai nước đã được phục hồi.
Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 3
Nhà Tây Sơn bao gồm ba anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, mỗi người đều làm vua ở một vùng lãnh thổ riêng. Nguyễn Huệ được gọi là Bắc Bình Vương. Trong bối cảnh xã hội đầy biến động ở Việt Nam thế kỷ XVIII, Lê Chiêu Thống lo lắng cho ngai vàng của mình nên đã mở cửa để quân Thanh và Tôn Sĩ Nghị xâm lược Thăng Long. Ngày 24 tháng 11, Trần Quang Tuyết đến Phú Xuân báo cho Bắc Bình Vương biết về việc quân Thanh xâm lược. Bắc Bình Vương quyết định tiến hành cuộc tấn công để đánh bại quân Thanh.
Bắc Bình Vương tổ chức một cuộc họp với các tướng sĩ để quyết định việc tiến quân ngay lập tức. Tuy nhiên, mọi người đều khuyên ông nên ban hành ân xá và giữ lòng nhân từ, sau đó mới tiến hành chiến dịch chinh phục Bắc đất. Bắc Bình Vương nghe theo ý kiến đó và tổ chức lễ dâng đàn tại núi Bân, kêu gọi các thần linh cùng các thần núi sông. Trong lễ dâng đàn, ông mặc chiếc áo long bào thêu hình rồng, đội mũ miện, đeo chuỗi hạt ngọc và đi giày vàng. Vẻ ngoài của ông rất trang nghiêm và uy nghi. Cuốn sách 'Các triều đại Việt Nam' mô tả: “Ông có vẻ ngoài đặc biệt. Tóc quán, da sẫm, tiếng nói uy nghi như tiếng chuông, mắt sáng như chớp, có thể nhìn thấy rõ mọi vật trong bóng tối”. Trên khuôn mặt của ông toát lên vẻ mạnh mẽ, uy phong và dữ dội. “Không ai dám nhìn trực tiếp vào mắt ông”.
Sau khi hoàn thành lễ dâng đàn, Bắc Bình Vương ra lệnh xuất quân vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788). Vua Quang Trung tự đứng ra chỉ huy cả quân thủy lẫn quân bộ. Ngày 29, khi đến Nghệ An, vua gặp Nguyễn Thiếp, một người có khả năng tiên đoán, để tìm hiểu về chiến thuật và kết quả dự kiến của cuộc chiến. Nguyễn Thiếp nói: “Sau không quá mười ngày, quân Thanh sẽ bị tiêu diệt”. Vua Quang Trung rất vui mừng và lập tức giao cho đại tướng Hám Hổ Hầu tuyển lính tại Nghệ An. Sau một thời gian ngắn, đã có hơn mười ngàn binh lính sẵn sàng chiến đấu, sắp xếp gọn gàng và sẵn sàng ra trận. Vua tổ chức một cuộc duyệt binh lớn tại trại quân và chia thành bốn đội: tiền, hậu, tả và hữu. Quang Trung cưỡi voi đi vòng quanh trại quân, vỗ về đội quân bằng khẩu lệnh mạnh mẽ, tự tin, thể hiện ý chí quyết thắng của quân đội chính nghĩa.
Hôm sau đó, vua Quang Trung ra lệnh tiến quân. Đêm 30 tháng chạp, vua tổ chức một buổi tiệc để khích lệ tinh thần binh lính và chia quân thành ba đạo. Ông nhấn mạnh rằng vào ngày mùng 7 Tết, họ sẽ đến Thăng Long và tổ chức một buổi tiệc ăn mừng. Mọi người đều vui vẻ và hào hứng trong buổi tiệc. Đúng như lịch trình, vào ngày đó, quân đội đã sẵn sàng rời đi. Để tiết kiệm sức lực cho binh lính, vua đã sử dụng cáng làm võng để hai người cầm một người ngủ, thay phiên nhau suốt ngày đêm. Khi đến sông Gián, tất cả đều cảm thấy mệt mỏi, áo quần bẩn thỉu, khuôn mặt mệt mỏi và bụi bặm sau chặng đường dài. Tuy nhiên, tinh thần của mọi người đều cao cả, sẵn sàng cho cuộc chiến.
Thấy quân Tây Sơn tiến đến, binh lính giặc ở sông Gián hoảng loạn bỏ chạy. Khi đến sông Thanh Quyết, quân Thanh cũng hốt hoảng chạy đi. Vua ra lệnh vây bắt tất cả binh lính, nên không ai của quân Thanh kịp chạy về báo tin. Quân Tây Sơn tiến đến làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc vào nửa đêm ngày mồng ba tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789) và bắt đầu vây kín làng. Vua kêu gọi binh lính, tiếng gọi lan khắp vùng trời và nghe như có hơn vài vạn người. Trong làng, mọi người sợ hãi và xin ra hàng, lương thực cũng bị lấy hết.
Vua ra lệnh làm sáu mươi tấm ván, mỗi bức ba tấm, phủ rơm và nước phủ kín. Sau đó, hạng lính khỏe mạnh khiêng mỗi bức, còn hai mươi người cầm binh khí theo sau. Quân Tây Sơn tiến gần đồn Ngọc Hồi, quân Thanh bắn súng nhưng không hiệu quả. Họ cố sử dụng khói để che giấu, nhưng bị gió thổi ngược lại làm tổn thất cho chính mình. Quân ta nhanh chóng tấn công và quân Thanh bỏ chạy tán loạn. Tướng địch là Sầm Nghi Đống đã tự vẫn, quân Tây Sơn thắng lợi và địch tan tác.
Vua Quang Trung đã sai một đội quân theo bờ đê Uyên Duyên và quân Thanh bị hoảng sợ và chạy trốn. Quân Tây Sơn truy đuổi và giết hàng vạn binh lính. Vào trưa ngày mồng 5, vua Quang Trung đến Thăng Long và quân Thanh không còn nhận được thông tin. Trong ngày Tết, quân Thanh chỉ tập trung vào tiệc tùng, nhưng ngày mồng 4, họ phải chạy trốn vì sợ hãi. Quân Tây Sơn ăn mừng chiến thắng và khẳng định sức mạnh độc lập của nước Việt Nam.
Chiến thắng của quân Tây Sơn đã chứng minh sức mạnh của nước Việt Nam và tạo ra hình ảnh anh hùng của Nguyễn Huệ với tài năng và ý chí kiên cường. Mỗi năm, người dân tổ chức lễ hội Đống Đa để tưởng nhớ công lao của các anh hùng và kỷ niệm chiến thắng lịch sử của dân tộc.
Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 4
Hoàng Lê Nhất Thống Chí là một tác phẩm ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê. Cuốn tiểu thuyết lịch sử này được viết theo lối chương hồi, với 17 hồi. Trong đó, hồi thứ 14 tái hiện một cách sinh động câu chuyện về vua Quang Trung đại phá quân Thanh.
Nguyễn Huệ được miêu tả là một người có hành động mạnh mẽ và quyết đoán. Khi nghe tin quân Thanh xâm chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ quyết định ra quân ngay lập tức. Mặc dù được khuyên làm vị hoàng đế trước đã, Nguyễn Huệ vẫn quyết định giữ chân quân ra đánh. Sau khi nhận được lời khuyên của Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huệ mừng rỡ và sau đó tập hợp quân lính để tiến vào trận chiến.
Trước khi khởi binh, vua Quang Trung đã có kế hoạch ngoại giao với nhà Thanh, chứng tỏ ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng của một lãnh tụ thông thái.
Vào đêm 30 Tết, sau khi tiệc khao quân, vua hẹn với tướng sĩ rằng vào mồng 7 Tết sẽ tiến vào thành. Khi đến sông Thanh Quyết, quân Thanh bị bắt giết hết, không ai có thể báo tin. Tin tức về cuộc tiến quân của vua Quang Trung vẫn được giữ bí mật.
Vào nửa đêm mồng 3 Tết, vua Quang Trung sử dụng mưu trí để nhanh chóng chiếm gọn làng Hà Hồi.
Quang Trung thừa thắng xông lên, tiến gần đồn Ngọc Hồi và tổ chức dàn trận hình chữ 'nhất'. Quân Thanh bị đánh bất ngờ, không thể chống cự, tán loạn bỏ chạy, máu chảy thành suối, thây nằm đầy đất, còn Thái thú Sầm Nghi Đống tự thắt cổ mà chết. Giữa trưa mồng 5, trong bóng chiếc áo bào đỏ sạm đen của quân Tây Sơn, vua Quang Trung kéo quân vào thành Thăng Long. Trong khi đó, vua Lê và Tôn Sĩ Nghị chỉ biết yến tiệc, nhưng cuộc vui chưa tàn, bỗng trời đã đổi. Tôn Sĩ Nghị và vua Lê Chiêu Thống phải gấp rút chạy sang bờ bắc để thoát thân.
Các tác giả của Hoàng Lê Nhất Thống Chí không chỉ ghi lại sự kiện lịch sử mà còn chú ý miêu tả từng hành động, lời nói của nhân vật. Điều này giúp hình ảnh của Nguyễn Huệ - Quang Trung trở nên sống động trong cuộc chiến tài dụng binh như thần.
Với cách kể chuyện sôi nổi kết hợp với việc miêu tả sâu sắc về tài năng và trí tuệ của người anh hùng Nguyễn Huệ, hồi thứ 14 của Hoàng Lê Nhất Thống Chí giống như một bức tranh vàng ghi lại những khó khăn của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc.
Một người lính đóng vai kể lại Hoàng Lê nhất thống chí
Hôm nay trời sáng quá, các cháu vẫn chưa muốn đi ngủ, chúng còn đang chơi trò đánh trận giả ở sân. Tiếng reo hò, cổ vũ của chúng như làm tôi nhớ lại những kỷ niệm đẹp của một thời theo đội quân Tây Sơn bách chiến bách thắng, đặc biệt là chiến công đại phá quân Thanh do chính Quang Trung chỉ huy.
Lúc trẻ, tôi sinh sống ở huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn. Vào mùa xuân năm 1771, đất nước Tây Sơn náo nức với cuộc nổi dậy, lật đổ chế độ của Trương Phúc Loan, chia tài sản của nhà giàu cho người nghèo, trong đó có ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Tôi cũng gia nhập vào quân Tây Sơn. Có thể nói, chiến công của quân Tây Sơn chủ yếu nhờ vào Nguyễn Huệ - một vị tướng tài ba, với dáng vẻ cao lớn, mái tóc xoăn tự nhiên, ánh mắt sáng như điện, giọng nói thanh thoát như tiếng chuông. Khi vua Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, Nguyễn Nhạc lên ngôi, còn Nguyễn Huệ trở thành Bắc Bình Vương. Tôi được phân vào đội lính bảo vệ ngài và chứng kiến sự tài năng của bậc anh hùng trong việc bảo vệ đất nước.
Vào ngày 24 tháng mười một năm Mậu Thân, khi nhận được tin quân Thanh đã chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ tức giận, họp các tướng sĩ để quyết định sẵn sàng xuất quân. Tuy nhiên, mọi người đều đề xuất rằng ông nên lên ngôi vị hoàng đế trước khi ra trận. Do đó, vào ngày 25 tháng Chạp, Bắc Bình Vương đã lên ngôi, đặt tên niên hiệu là Quang Trung và ra lệnh xuất quân.
Ngày 29 tháng Chạp, Quang Trung đến Nghệ An, bàn việc quân với Nguyễn Thiếp. Nghe Nguyễn Thiếp nói không quá mười ngày, quân Thanh sẽ bị dẹp tan, vua rất vui và bắt đầu tuyển lính, duyệt binh, sau đó ra lời phủ dụ động viên tướng sĩ. Tất cả chúng tôi đều cảm thấy xúc động và tràn đầy hăng hái, tự tin trước cuộc chiến sắp tới dù quân địch có lên đến hai mươi vạn.
Vào ngày 30 tháng Chạp, Quang Trung đến Tam Điệp, tha tội chết cho Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân vì họ rút quân mà không đánh trận. Quang Trung hiểu đó là kế sách của Ngô Thì Nhậm để bảo toàn lực lượng và trấn giữ nơi hiểm yếu, tạo điều kiện cho quân Tây Sơn tấn công bất ngờ. Ông cũng dự định sau chiến thắng sẽ cử Ngô Thì Nhậm sang thương thuyết với nhà Thanh để tăng cường lực lượng và xây dựng đất nước. Sau đó, vua tổ chức tiệc khao quân. Vào tối 30, cả năm đạo quân lên đường ra Bắc. Ông chia ra làm năm đạo quân. Đạo chủ lực do Quang Trung trực tiếp chỉ huy, tiến thẳng vào Thăng Long. Đạo thứ hai và thứ ba đánh vào phía tây Thăng Long và hỗ trợ cho đạo chủ lực. Đạo thứ tư tiến vào hướng Hải Dương. Đạo thứ năm tiến lên Lạng Giang - Bắc Giang, chặn đường rút lui của quân địch. Khi tiến đến Thăng Long, để giữ sức cho quân lính chiến đấu, ông ra lệnh dùng cáng làm võng. Hai người khiêng một người nằm ngủ và tiếp tục di chuyển suốt đêm.
Khi quân Tây Sơn đến sông Thanh Quyết, Quang Trung bắt hết quân do thám đang chạy trốn, làm cho bọn giặc ở Hà Hồi, Ngọc Hồi không biết gì cả.
Vào nửa đêm mùng ba tháng giêng năm Kỉ Dậu, vua Quang Trung đã bao vây làng Hà Hồi. Tiếng loa truyền lan rộng, quân lính hùng hồn đến ủng hộ, như có vạn người. Quân địch trong đồn hoảng sợ, xin nộp hàng. Quân Tây Sơn thu được toàn bộ lương thực và vũ khí.
Trong trận đánh ở đồn Ngọc Hồi, tôi đã chứng kiến sự cẩn trọng của Nguyễn Huệ. Vào đêm mùng bốn, khi tôi cùng nhóm gác đêm bảo vệ vua, tôi thấy ngài vẫn thức trắng suốt đêm. Đồn Ngọc Hồi được xây dựng chắc chắn, bao quanh đều có hàng rào sắt và bẫy địa lôi. Trước cuộc tấn công vào đồn, vua Quang Trung đã giao phó làm sẵn sáu mươi tấm ván, mỗi ba tấm ghép lại thành một tấm, bên ngoài được phủ đầy rơm dấp nước, tổng cộng hai mươi bức. Sau đó, vua tuyển chọn những lính khỏe mạnh, mỗi nhóm mười người mang một tấm ván, lưng gắn dao ngắn, hai mươi người khác cầm vũ khí để bảo vệ. Họ dàn trận thành hình chữ 'nhất'. Vua Quang Trung cưỡi voi tiến vào trận chiến, nhóm của tôi, dù nhiệm vụ ban đầu là bảo vệ vua, nhưng cuối cùng cũng tham gia vào cuộc tấn công theo mệnh lệnh của vua. Sáng sớm mùng năm, quân Tây Sơn tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng, nhưng không gây thiệt hại. Do gió thổi từ phía bắc, quân Thanh đã dùng ống phun khói để gây rối loạn cho quân Tây Sơn. Nhưng đột ngột, gió lại đổi hướng, làm quân Thanh rối loạn. Quang Trung liền ra lệnh cho nhóm cầm ván tiến lên. Khi gươm giáo va chạm, nhóm cầm ván ném chúng xuống và sử dụng dao ngắn chiến đấu. Các binh sĩ cầm gươm giáo theo sau cũng tham gia vào cuộc tấn công. Đồng thời, các đạo quân thứ hai và thứ ba tấn công đồn Đống Đa, Sầm Nghi Đống đã tự sát. Quân Thanh thảm bại, thây nằm trên mặt đất, máu chảy đầm đìa.
Trong cuộc tấn công vào thành Thăng Long, Quang Trung đã sử dụng chiến thuật gọng kìm. Đạo quân thứ tư được sắp xếp ở hướng đông. Quân Thanh sợ hãi, tìm cách lùi về nhưng lại bị đạo quân thứ năm chặn đường. Chúng phải lùi về đầm Mực, làng Quỳnh Đô thì bị quân Tây Sơn tiến vào và tiêu diệt. Giữa trưa mùng năm tết, Quang Trung dẫn quân vào Thăng Long. Khi Tôn Sĩ nghe tin Quang Trung tấn công đồn Ngọc Hồi, hắn hoảng sợ và không kịp mang theo vật dụng cá nhân, chỉ kịp cầm dao rồi bỏ chạy về phía bắc. Quân Thanh nghe tin hoảng sợ, đua nhau chạy qua cầu. Cầu bị đứt, quân Thanh rơi xuống sông Nhị Hà đến mức nước sông bị tắc nghẽn. Vua Lê Chiêu Thống và tùy tùng cũng bỏ chạy về Trung Quốc.
Chiến công vĩ đại của Quang Trung trong việc đánh bại quân Thanh là nguồn cảm hứng vĩ đại cho dân tộc. Dù quân Thanh có hai mươi nghìn quân, nhưng với tài năng chỉ huy xuất sắc của Nguyễn Huệ, lòng yêu nước cháy bỏng và sự đoàn kết của các tướng sĩ, đội quân Tây Sơn đã tạo ra một chiến tích lịch sử. Sau khi vua mất, Nguyễn Ánh lật đổ nhà Tây Sơn và lập ra triều Nguyễn. Những người lính như tôi, sau một thời gian bị bắt, đã được trả về quê hương. Dù thời gian trôi đi, nhưng hình ảnh vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ vẫn mãi sống đọng trong lòng dân tộc và cả trong lòng các tướng lĩnh đã từng cùng ngài chiến đấu.
Diễn viên đảm nhận vai Quang Trung trong cuốn sách lịch sử Hoàng Lê nhất thống chí.
Vào năm Kỉ Dậu 1789, khi nghe tin quân Thanh tiến vào Thăng Long, lòng ta bỗng nổi lên cơn tức giận. Ban đầu, ta đã suy nghĩ đưa quân ra Bắc ngay lập tức để đánh lui chúng. Tuy nhiên, vì tình hình dân chúng chưa ổn định, nên ta quyết định chờ đến khi lên ngôi vua mới ra lệnh xuất quân đánh giặc, điều này cũng chưa quá muộn.
Ngay sau khi kế vị, ta đã tự mình ra lệnh triệu tập binh lính, cả thủy và bộ đều sẵn sàng ra quân. Khi đến Nghệ An, ta đã triệu tập một đội quân tinh nhuệ để bảo vệ đất nước. Tại Thuận Hóa và Quảng Nam, ta đã tổ chức một cuộc duyệt binh, động viên và khích lệ quân lính. Ta cũng nhắc nhở quân lính rằng họ cần chuẩn bị sẵn sàng ra quân vào ngày 30 Tết, và sau đó, vào ngày mùng 7 tháng Giêng, họ sẽ vào Thăng Long để ăn mừng. Mọi đạo quân đều tuân thủ mệnh lệnh và tiếp tục hành quân. Khi đến sống Gián, địa bàn nghĩa binh đã tan rã trước sự tấn công của quân ta. Tại sông Thanh Quyết, khi thấy quân ta hùng mạnh, quân Thanh đã bỏ chạy. Ta đã ra lệnh cho quân ta đuổi theo, không để một kẻ nào sống sót, nhằm tránh cho những đội quân Thanh ở Hà Hồi và Ngọc Hồi có thời gian chuẩn bị.
Vào nửa đêm mồng 3 tháng Giêng năm Kỉ Dậu, quân ta đã âm thầm bao vây làng Hà Hồi. Bằng cách sử dụng loa truyền, quân lính ta kêu la lớn tiếng, tạo ra âm thanh giống như có hàng vạn người. Quân Thanh trong làng hoảng sợ và đầu hàng. Vào ngày mồng 5, quân ta tiến gần đến đồn Ngọc Hồi trong đêm tối tăm, mỗi nhóm mười lính mang theo một miếng ván để sử dụng làm pháo đài, với lưng gắn dao ngắn, sẵn sàng cho trận chiến. Quân Thanh đã nổ súng bắn, nhưng không gây ra thiệt hại gì cho quân ta, và sau khi thử mọi biện pháp nhưng không thành công, họ chỉ biết nhìn quân ta tiến vào đồn mà thôi.
Ngay khi tiếp xúc với kẻ địch, quân ta ngay lập tức vứt bỏ ván phòng thủ và rút dao ra chiến đấu. Quân Thanh bất lực và bỏ chạy trong sự hỗn loạn, họ đè lên nhau và chết. Xác của quân Thanh nằm rải rác khắp nơi, và Sầm Nghi Đống đã tự sát bằng cách treo cổ. Quân Thanh đã chạy về phía Vịnh Kiều, và ta đã đưa quân xuống đầm mực, sử dụng voi chiến để giẫm đạp và tiêu diệt hàng vạn quân địch. Sau chiến thắng, quân Tây Sơn của ta tiến vào gần Thăng Long. Khi Tôn Sĩ Nghị nghe tin sợ mất mật, anh ta không kịp mặc áo giáp và chỉ kịp leo lên ngựa để chạy trốn. Quân lính Thanh đã bỏ chạy, đẩy lẻn lên nhau và chết, khi qua cầu, cầu bị sập và quân lính Thanh rơi xuống nước và chết hết, nước sông Nhị Hà bị tắc nghẽn và không thể chảy. Quân Thanh đã thất bại.
Chỉ trong vòng năm ngày đêm, ta đã trả thù cho đất nước, đánh đuổi hoàn toàn quân xâm lược. Là một vị vua, ta đã hoàn thành nhiệm vụ của mình trong việc đem lại hòa bình và độc lập cho đất nước, sau hơn 45 năm chịu đựng nội chiến. Ta rất hạnh phúc và tự hào về điều đó.
Khi viết những dòng hồi kí này, tôi lại nhớ về thời đi lính Tây Sơn, chúng tôi cùng nhau chiến đấu để đánh lui quân Thanh trở lại với chốn cội của chúng. Bây giờ, khi đất nước đã bình yên và phồn thịnh, tôi cũng được gặp gỡ các anh hùng dòng họ, để lại dấu hương khói cho thế hệ sau.