1. Tìm hiểu về vi khuẩn dịch hạch
Vi khuẩn dịch hạch, hay còn gọi là trực khuẩn Yersinia pestis thuộc loài Yersinia, họ vi khuẩn ruột, là nguyên nhân gây ra bệnh dịch hạch, một căn bệnh rất nguy hiểm.
Vi khuẩn dịch hạch là trực khuẩn ngắn, dễ sinh trưởng ở điều kiện bình thường, nhiệt độ lý tưởng cho vi khuẩn là từ 28 - 37 độ C. Đây là loại vi khuẩn có sức đề kháng yếu, có thể bị ánh sáng mặt trời làm chết trong vài giờ, ở nhiệt độ 55 độ C có thể bị tiêu diệt trong khoảng 30 phút và ở nhiệt độ 100 độ C chỉ trong 1 phút. Các ổ vi khuẩn trong môi trường như xác chuột, đất ẩm,... có thể tồn tại khá lâu, từ vài chục ngày đến vài tháng.
Bệnh dịch hạch là căn bệnh của các loài gặm nhấm hoang
Trực khuẩn dịch hạch có khả năng tạo ra nội độc tố và ngoại độc tố, nội độc tố gây ra triệu chứng sốt của bệnh dịch hạch, ngoại độc tố là protein, còn được gọi là độc tố chuột, gây ra tình trạng tan hồng cầu, tác động lên mạch máu gây ra hiện tượng ứ máu, sốc.
Trực khuẩn dịch hạch có khoảng từ 16 đến 28 kháng nguyên, trong đó có 3 loại kháng nguyên được biết rõ như sau:
- - Kháng nguyên vỏ (F1): có trong vi khuẩn được nuôi cấy ở nhiệt độ 37 độ C hoặc trong bệnh phẩm lấy từ bệnh nhân mắc bệnh. Là kháng nguyên giúp vi khuẩn chống lại thực bào để sinh trưởng và phát triển.
- Kháng nguyên thân: là một phần của nội độc tố và là kháng nguyên chung với các vi khuẩn đường ruột.
- Kháng nguyên V và W: bao gồm protein V và lipoprotein W và có liên quan đến khả năng chống lại thực bào của vi khuẩn.
2. Khả năng gây bệnh của vi khuẩn dịch hạch
Bệnh dịch hạch là một bệnh của các loài động vật gặm nhấm hoang, có nhiều loài gặm nhấm hoang dã nhưng chủ yếu là gặp ở các loài chuột. Bệnh có thể lây từ chuột nhà, chuột đồng và được truyền qua con người bằng các vết đốt của bọ chét nhiễm khuẩn. Trong quá trình lây nhiễm này, vai trò quan trọng nhất thuộc về bọ chét chuột, nhưng cũng có thể gặp ở bọ chét người,...
Những người đến gần ổ dịch cũng có thể bị cắn và nhiễm khuẩn từ bọ chét. Bệnh có thể lây giữa người sang người qua chấy rận, hoặc trực tiếp từ người nhiễm mắc bệnh dịch hạch thể phổi. Ngoài ra, bệnh cũng có thể lây qua thức ăn và nước uống bị nhiễm từ chuột. Tuy nhiên, vi khuẩn dịch hạch có thể bị tiêu diệt khi thức ăn được nấu chín. Bệnh cũng có thể lây qua tiếp xúc với vùng da bị tổn thương của người bệnh, nhưng cách lây này khá hiếm.
Sau khi xâm nhập vào cơ thể con người, vi khuẩn dịch hạch sẽ đi qua hệ thống bạch huyết, sau đó lưu lại và phát triển ở các hạch. Sau đó, chúng đi vào máu qua các đường bạch huyết, sau đó đến các cơ quan như hạch sâu, gan, thận, lách, gây ra bệnh dịch hạch thể hạch. Thời gian ủ bệnh thường từ 3 đến 6 ngày tùy thuộc vào sức đề kháng của người nhiễm vi khuẩn.
Bệnh lây truyền sang con người thông qua bọ chét nhiễm bệnh
Nếu các tế bào gan, thận, lách không thể ngăn chặn được sự phát triển của vi khuẩn dịch hạch, chúng có thể sinh sản và phát triển, gây ra nhiễm khuẩn huyết tiên phát. Vi khuẩn sau đó tiếp tục lan truyền qua máu đến các cơ quan khác, gây ra các thể hạch, thể não, thể phổi,... thứ phát.
3. Các thể phổ biến của bệnh dịch hạch
Thể hạch
Là thể lâm sàng phổ biến nhất của bệnh, không có biểu hiện nào trong thời gian nung bệnh.
Trong giai đoạn bùng phát bệnh, người bệnh thường có các triệu chứng sốt cao, mệt mỏi, chóng mặt và các triệu chứng nặng nề khác như buồn nôn, cảm giác rét run.
Tại nơi bị bọ chét cắn, có thể xuất hiện các nốt nước, có thể đen ở giữa. Các hạch nổi lên sẽ sưng to, cứng, không di động và gây đau đớn cho người bệnh, thậm chí cả khi ngủ. Các khối hạch lúc sưng to có thể tiết ra mủ, tự vỡ và chảy mủ, tạo thành các lỗ trên da và để lại sẹo. Các hạch cũng có thể xơ hóa thành khối cứng.
Bệnh nhân cần được điều trị kịp thời, nếu không có thể tử vong sau 5 đến 6 ngày nhiễm bệnh do vi khuẩn xâm nhập vào máu.
Thể phổi
Với thể phổi tiên phát, nguyên nhân thường là do tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân mắc bệnh dịch hạch thể phổi. Người bệnh có các triệu chứng như sốt cao, rét run, nhịp tim nhanh, huyết áp giảm, mệt mỏi, đau đầu và các triệu chứng khác. Sau một khoảng thời gian ngắn, xuất hiện các triệu chứng về hệ thống hô hấp như thở nhanh, khó thở, ho có đờm kèm máu. Bệnh có thể tiến triển nhanh chóng và trở thành phù phổi cấp, gây rối loạn tim mạch và có thể gây tử vong sau 2 - 3 ngày nếu không được điều trị.
Thể phổi thứ phát phát triển từ các thể tiên phát như thể hạch do không được phát hiện và điều trị kịp thời, thường gặp hơn so với thể phổi tiên phát.
Người mắc bệnh dịch hạch thường có triệu chứng sốt cao từ 40 đến 41 độ C.
Thể da
Tại các vết đốt nơi vi khuẩn xâm nhập, có thể xuất hiện các nốt rát, sau đó phát triển thành nốt nước và sau cùng là nốt mủ kèm máu. Vùng da xung quanh nốt mủ thường bị sưng, đỏ và nổi cao hơn so với vùng da không bị ảnh hưởng. Các nốt mủ khi vỡ ra tạo thành các vết loét màu vàng và phủ bởi các vảy đen. Những vết loét này thường mất thời gian để lành và để lại sẹo.
Thể nhiễm khuẩn huyết
Là thể hiếm gặp của bệnh, chỉ chiếm 1 - 2 % số trường hợp.
Nhiễm khuẩn huyết tiên phát diễn ra rất nhanh chóng và bất ngờ. Bệnh nhân có triệu chứng sốt cao kèm theo rét run, nôn nhiều, đầy bụng, tiêu chảy, xuất huyết trên da và niêm mạc, cùng với rối loạn về nhịp tim và hô hấp. Bệnh nhân thường trở nên kích động hoặc tình trạng nằm li bì; các triệu chứng trở nên rõ rệt đặc biệt khi các hạch bị nhiễm trùng. Thể bệnh thứ phát thường xảy ra khi sức đề kháng của bệnh nhân giảm sút, thường là do biến chứng từ thể hạch và thể phổi.
Bệnh nặng, phát triển rất nhanh, nếu không điều trị kịp thời có thể gây tử vong sau 2 - 3 ngày.
Vi khuẩn dịch hạch khi xâm nhập vào máu có thể gây ra tình trạng nhiễm khuẩn máu, đe dọa tính mạng