1. Quy định liên quan đến chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình
1.1 Chính sách về dân số và kế hoạch hóa gia đình
Các quy định về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình bao gồm:
- Khuyến khích sinh từ 1 đến 2 con: Giúp giảm nguy cơ tai biến sản khoa, bảo vệ sức khỏe phụ nữ, giảm tình trạng suy dinh dưỡng và giữ gìn vẻ đẹp.
- Khoảng cách giữa các lần sinh nên từ 3 đến 5 năm: Điều này giảm bớt gánh nặng dinh dưỡng và sức khỏe cho người mẹ, giúp giảm nguy cơ suy dinh dưỡng và tai biến sản khoa, đồng thời người mẹ có thời gian chăm sóc trẻ.
- Tuổi sinh con nên từ 22 đến 35 tuổi: Sinh khi còn quá trẻ có thể dẫn đến tai biến sản khoa và suy dinh dưỡng cho mẹ và con.
Theo khoản 9, Điều 3 - Pháp lệnh dân số (Số:06/2003/PL-UBTVQH11), quy định.
“Kế hoạch hóa gia đình là sự nỗ lực của nhà nước và xã hội, nhằm giúp mỗi cá nhân và cặp vợ chồng có thể chủ động và tự nguyện quyết định số lượng con, thời điểm sinh con và khoảng cách giữa các lần sinh, với mục tiêu bảo vệ sức khỏe, nuôi dạy con cái có trách nhiệm, phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện sống của gia đình”.
1.2 Bình đẳng giới trong gia đình
Theo Điều 18 của Luật Bình đẳng giới năm 2006, bình đẳng giới trong gia đình bao gồm:
“1. Vợ và chồng có quyền bình đẳng trong các quan hệ dân sự cũng như các vấn đề liên quan đến hôn nhân và gia đình;
2. Vợ và chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong việc sử dụng thu nhập chung và quyết định các nguồn lực trong gia đình;
3. Vợ và chồng có quyền bình đẳng trong việc thảo luận, quyết định và áp dụng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình, cũng như sử dụng thời gian nghỉ để chăm sóc con ốm theo quy định pháp luật;
4. Các con trai và con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện bình đẳng để học tập, làm việc, vui chơi, giải trí và phát triển.
5. Các thành viên trong gia đình, dù nam hay nữ, đều có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình.
Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình có nghĩa là vợ chồng có quyền và nghĩa vụ như nhau trong các hoạt động gia đình, đảm bảo sự công bằng trong việc quyết định số con, khoảng cách giữa các lần sinh, kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc con cái. Sự chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau giữa vợ và chồng giúp gia đình ổn định và bền vững. Bình đẳng giới cũng đảm bảo con cái được nuôi dưỡng tốt, học hành chăm chỉ, phát triển thành những công dân tốt. Môi trường gia đình đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người, giúp họ hòa nhập vào cộng đồng và xã hội.
2. Đảng viên có bị xử lý kỷ luật nếu sinh con thứ ba không?
Pháp lệnh số 08/2008/PL-UBTVQH12 sửa đổi Điều 10 Pháp lệnh dân số quy định quyền và nghĩa vụ của các cặp vợ chồng và cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc sức khỏe sinh sản. Quy định yêu cầu sinh từ một đến hai con, trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định. Những trường hợp này được quy định tại Điều 2 Nghị định số 20/2010/NĐ-CP và Nghị định số 18/2011/NĐ-CP sửa đổi khoản 6 Điều 2 Nghị định số 20/2010/NĐ-CP.
1. Các cặp vợ chồng sinh con thứ ba có thể không bị xử lý kỷ luật nếu cả hai hoặc một trong hai người thuộc dân tộc có số dân dưới 10.000 người hoặc dân tộc có nguy cơ suy giảm dân số (tỷ lệ sinh nhỏ hơn hoặc bằng tỷ lệ chết) theo công bố chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
2. Các cặp vợ chồng sinh con lần đầu mà có ba con trở lên.
3. Các cặp vợ chồng đã có một con và sinh lần thứ hai với hai con trở lên.
4. Các cặp vợ chồng sinh lần thứ ba hoặc sau đó, nếu tại thời điểm sinh chỉ còn một con đẻ sống, bao gồm cả con đẻ đã được nhận làm con nuôi.
5. Các cặp vợ chồng sinh con thứ ba trong trường hợp đã có hai con đẻ, nếu một hoặc cả hai con có dị tật hoặc bệnh hiểm nghèo không di truyền, và được xác nhận bởi Hội đồng Giám định y khoa cấp tỉnh hoặc Trung ương.
6. Các cặp vợ chồng đã có con riêng (con đẻ):
a) Sinh một hoặc hai con nếu một trong hai người đã có con riêng (con đẻ);
b) Sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh, nếu cả hai người đều đã có con riêng (con đẻ). Quy định này không áp dụng cho trường hợp hai người đã có hai con chung trở lên và các con hiện vẫn còn sống.
Theo Điều 27 Quy định số 102/QĐ-TW của Ban Chấp hành Trung ương về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình,
1. Đảng viên vi phạm một trong các trường hợp sau gây hậu quả ít nghiêm trọng hoặc vi phạm trong trường hợp sinh con thứ ba (trừ khi pháp luật có quy định khác) sẽ bị kỷ luật bằng hình thức khiển trách:
a) Cản trở hoặc ép buộc thực hiện kế hoạch hóa gia đình; tham gia vào các hoạt động xét nghiệm hoặc chẩn đoán để xác định giới tính thai nhi trái quy định.
b) Khai báo hoặc yêu cầu xác nhận, giám định không chính xác về tình trạng sức khỏe của vợ (chồng) hoặc con để thực hiện không đúng quy định hoặc nhằm tránh bị xử lý về vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.
2. Nếu đã bị xử lý kỷ luật theo Khoản 1 Điều này mà tái phạm, hoặc lần đầu vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc vi phạm trong trường hợp sinh con thứ tư (trừ trường hợp pháp luật quy định khác), thì sẽ bị kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức (nếu có chức vụ).
3. Nếu vi phạm quy định tại Khoản 1 hoặc Khoản 2 Điều này gây hậu quả rất nghiêm trọng, hoặc vi phạm trong trường hợp sinh con thứ năm trở lên, hoặc các trường hợp khác theo quy định, sẽ bị kỷ luật bằng hình thức khai trừ.
Gian lận trong việc khai báo con đẻ hoặc nhận nuôi con nuôi nhưng thực tế là con đẻ nhằm cố tình sinh thêm con ngoài quy định.
Do đó, đảng viên sinh con thứ ba sẽ bị kỷ luật bằng hình thức khiển trách, sinh con thứ tư sẽ bị cảnh cáo hoặc cách chức nếu có chức vụ, và sinh con thứ năm trở lên sẽ bị khai trừ khỏi đảng.
3. Khi nào Đảng viên sinh con thứ ba không bị xử lý kỷ luật?
Theo Hướng dẫn số 04 –HD/UBKTTW năm 2018 của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương về việc thực hiện Quy định số 102/QĐ-TW của Ban Chấp hành Trung ương về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.
- Các cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu cả hai hoặc một trong hai người thuộc dân tộc có số dân dưới 10.000 người hoặc thuộc dân tộc đang có nguy cơ giảm số dân (tỷ lệ sinh bằng hoặc thấp hơn tỷ lệ chết) theo công bố của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
- Các cặp vợ chồng sinh con lần đầu mà có ba con trở lên.
- Các cặp vợ chồng đã có một con, sinh con lần thứ hai mà có hai con trở lên.
- Các cặp vợ chồng sinh từ con thứ ba trở lên, nếu tại thời điểm sinh chỉ còn một con đẻ sống, bao gồm cả con đẻ đã được nhận làm con nuôi.
- Các cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu đã có hai con đẻ nhưng một hoặc cả hai con bị khuyết tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không di truyền, được Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh hoặc Trung ương xác nhận.
- Các cặp vợ chồng đã có con riêng (con đẻ): sinh một hoặc hai con nếu một trong hai người đã có con riêng; sinh một hoặc hai con trong cùng một lần nếu cả hai đều đã có con riêng. Quy định này không áp dụng nếu hai người đã có từ hai con chung trở lên và các con đó còn sống.
- Nếu sinh con thứ ba do mang thai ngoài ý muốn và việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người mẹ (theo xác nhận của bệnh viện cấp huyện hoặc tương đương trở lên), sẽ không bị xem xét xử lý kỷ luật.
4. Quy định về kỷ luật đối với đảng viên vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình
- Đảng viên vi phạm một trong các trường hợp dưới đây với hậu quả ít nghiêm trọng, hoặc vi phạm khi sinh con thứ ba (trừ các trường hợp luật định khác) sẽ bị kỷ luật bằng hình thức khiển trách:
+ Cản trở hoặc ép buộc thực hiện kế hoạch hóa gia đình; tham gia vào các hoạt động xét nghiệm hoặc chẩn đoán để xác định giới tính thai nhi không theo quy định.
+ Khai báo hoặc xin xác nhận, giám định không trung thực về tình trạng sức khỏe của vợ (chồng), con cái để không thực hiện đúng quy định hoặc trốn tránh bị xử lý vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.
- Nếu vi phạm đã bị xử lý theo quy định tại Khoản 1 Điều này mà tái phạm hoặc lần đầu gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc vi phạm khi sinh con thứ tư (trừ các trường hợp luật định khác), sẽ bị kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức (nếu có chức vụ).
- Nếu vi phạm quy định tại Khoản 1 hoặc Khoản 2 Điều này gây hậu quả rất nghiêm trọng, hoặc vi phạm khi sinh con thứ năm trở lên, sẽ bị kỷ luật bằng hình thức khai trừ.
Gian lận trong việc khai báo con đẻ hoặc nhận nuôi con nuôi, nhưng thực chất là con đẻ để cố tình vi phạm quy định về số lượng con.