Viêng Chăn Viang chan ວຽງຈັນ | |
---|---|
— Thủ đô — | |
Pha That Luang | |
Viêng Chăn Viang chan | |
Tọa độ: | |
Quốc gia | Lào |
Chính quyền | |
• Bí thư thành ủy | Anouphap Tounalom |
Diện tích | |
• Đất liền | 3.920 km (1,510 mi) |
• Đô thị | 557 km (215 mi) |
Độ cao | 170 m (50 ft) |
Dân số (2023) | |
• Thủ đô | 1,003,004 |
Múi giờ | UTC+7 |
Thành phố kết nghĩa | Băng Cốc, Chittagong, Phnôm Pênh, Orlando, Thành phố Hồ Chí Minh, Cirebon, Bắc Kinh, Hà Nội, Côn Minh |
Viêng Chăn (tiếng Lào: ວຽງຈັນ, Viang chan, IPA: [wíəŋ tɕàn], tiếng Pháp: Vientiane, phát âm tiếng Pháp: [vjɛ̃ˈtjan]), tiếng Việt xưa gọi là Vạn Tượng hay Mường Viêng
Viêng Chăn trở thành thủ đô vào năm 1573, do người Lào lo ngại về một cuộc xâm lược của người Miến, nhưng sau đó đã Lào lại bị cướp phá, rồi bị san bằng vào năm 1827 bởi Xiêm. Viêng Chăn từng là thủ đô hành chính trong thời kỳ cai trị của Pháp và do sự tăng trưởng kinh tế trong thời gian gần đây, hiện nay là trung tâm kinh tế của Lào. Tính đến năm 2023, thành phố có dân số 1,003,004 người.
Viêng Chăn được biết đến là nơi có di sản quốc gia quan trọng nhất ở Lào - Thạt Luông - là biểu tượng đặc trưng của đất nước này và là trung tâm của Phật giáo ở Lào. Ngoài ra, các ngôi chùa Phật giáo quan trọng khác cũng có thể được tìm thấy tại đây, ví dụ như Haw Phra Kaew, nơi trước đây trưng bày tượng Phật Ngọc.
Thành phố này đã tổ chức thành công Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 25 vào tháng 12 năm 2009, kỷ niệm 50 năm Đại hội thể thao Đông Nam Á.
Quản lý hành chính
Thủ đô Viêng Chăn bao gồm khu vực nội đô và khu vực ngoại đô. Khu vực nội đô, hay còn được gọi là Thủ đô Viêng Chăn, gồm có 5 quận:
- Chanthabuly
- Sikhottabong
- Xaysetha
- Sisattanak
- Hadxaifong
Ngoại thành bao gồm 4 huyện là:
- Mayparkngum
- Naxaithong
- Sangthong
- Xaythany
Vị trí địa lý
Viêng Chăn có diện tích 3920 km² và dân số 820.940 người (năm 2015, bao gồm cả khu vực đô thị và huyện nông thôn), trong đó khu vực Thủ đô có 471.000 người (2015). Thành phố tiếp giáp với tỉnh Viêng Chăn ở phía tây bắc và bắc, tỉnh Bolikhamsai ở phía đông bắc, tỉnh Nong Khai của Thái Lan ở phía nam và tỉnh Bueng Kan của Thái Lan ở phía đông, với sông Mê Kông là biên giới tự nhiên. Viêng Chăn nằm ở tả ngạn sông Mê Công, tọa độ 17°58' Bắc, 102°36' Đông (17.9667, 102.6). [1] Lưu trữ 2012-08-23 tại Wayback Machine. Sông Mê Công là biên giới tự nhiên giữa Lào và Thái Lan.
Khí hậu ở tỉnh Viêng Chăn được hình thành và duy trì nhờ cơ chế gió mùa nhiệt đới, mùa đông ít mưa và mùa hè nóng ẩm. Tổng bức xạ hàng năm dưới 160 kcal/cm2 và cân bằng bức xạ hàng năm dưới 75 kcal/cm2. Năm có khoảng 25 - 30 đợt lạnh. Nhiệt độ trung bình hàng năm không thấp hơn 23ºC, nhưng tháng 01 có nhiệt độ trung bình dưới 18ºC và biên độ nhiệt độ hàng năm trên 12ºC. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 và chiếm khoảng 80% lượng mưa hàng năm. Mùa ít mưa chủ yếu là mưa nhỏ và mưa phùn kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, với tháng 12 hoặc tháng 01 có lượng mưa ít nhất. Viêng Chăn có mùa đông lạnh rõ rệt hơn so với các khu vực phía Nam. Tần suất lạnh cao, số ngày có nhiệt độ thấp đáng kể, đặc biệt là những ngày rét sâu và rét hại, mùa lạnh kéo dài và mưa phùn nhiều hơn. Nhờ mùa đông lạnh này, cây trồng ở Viêng Chăn và đồng bằng Bắc Bộ đều có vụ mùa đông đặc biệt trong miền nhiệt đới.
Lịch sử
Theo sử thi lịch sử của Lào, Phra Lak Phra Lam, vị vua Thattaradtha sau khi nhường ngôi xứ Muong Inthapatha Maha Nakhone huyền thoại cho em trai, ông đã ra đi và thành lập một thị trấn mới mang tên Maha Thani Si Phan Phao ở bờ phía tây sông Mekong; sử Lào cho rằng đó là Udon Thani ngày nay thuộc Thái Lan. Một lần, có 7 con rồng khuyên Thattaradtha xây dựng một thành phố mới ở bờ đối diện. Thattaradtha lắng nghe và xây dựng thành phố Chanthabuly Si Sattanakhanahud, tiền thân của Viêng Chăn ngày nay.
Trái với truyền thuyết Phra Lak Phra Lam, sử học cho rằng Viêng Chăn ban đầu là một thị trấn của người Khmer tập trung quanh một đền Hindu. Đền đó sau này trở thành Pha That Luang.
Vào thế kỷ 11 và 12, người Lào và Thái Lan di cư xuống Đông Nam Á từ Hoa Nam để đánh đuổi người Khmer và đồng hóa số còn lại, chiếm cứ khu vực trung tâm của nước Lào. Năm 1354, khi Phà Ngừm thành lập vương quốc Lan Xang, Viêng Chăn trở thành một trung tâm hành chính quan trọng, mặc dù không phải là thủ đô Lan Xang. Hơn hai trăm năm sau đó, vua Xaysethathirath di cư đến Viêng Chăn vào năm 1560, xây dựng thêm các công trình phòng thủ. Khi Lan Xang sụp đổ vào năm 1707, Viêng Chăn trở thành một vương quốc độc lập, chiếm cả khu vực trung tâm Lào và Đông Bắc Thái Lan. Không lâu sau đó vào năm 1779, Viêng Chăn bị quân Xiêm đe dọa; tướng quân Xiêm là Phraya Chakri chiếm được và bắt các quan Lào phục tùng triều Xiêm.
Khi vua Anouvong (phiên âm tiếng Việt là A Nỗ, hay Chậu A Nụ) nổi dậy và chiến đấu chống lại quân Thái, ban đầu có những thành tựu nhưng sau đó bị quân vua Xiêm phản công và đánh bại thảm hại. Vào năm 1827, Viêng Chăn bị quân Xiêm bao vây. Dân Lào dù cố gắng chiến đấu nhưng thành trì bị đánh tan tành; Viêng Chăn bị quân Xiêm tàn phá hầu như hoàn toàn. Cư dân trong thành bị bắt đi, còn một phần bị phân tán, Viêng Chăn trở nên hoang tàn. Cho đến năm 1893 khi người Pháp bắt đầu thực hiện chính sách bảo hộ đối với Lào, Viêng Chăn mới bắt đầu phục hồi và trở thành thủ đô của Lào vào năm 1899.
Trước năm 1989, thành phố và tỉnh Viêng Chăn là một đơn vị hành chính duy nhất. Sau khi phân chia, Lào có cả tỉnh Viêng Chăn và thành phố trực thuộc trung ương Viêng Chăn.
Nguồn gốc tên gọi
Thành phố Viêng Chăn trong tiếng Lào được gọi là Nakhonluang Viangchan (tiếng Lào: ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ), trong đó Nakhon có nghĩa là 'thành phố', luang có nghĩa là 'chính' hoặc 'lớn'. Phần thủ đô Viêng Chăn trong tiếng Lào gọi là Kampheng nakhon Viangchan.
Tên gọi của thành phố bắt nguồn từ tiếng Pali, một ngôn ngữ văn học của Phật giáo điển hình, và nghĩa ban đầu của nó là 'Khu rừng đàn hương của vua', loại cây quý vì hương thơm của nó, theo kinh điển Ấn Độ. Ý nghĩa của Viêng Chăn là 'Thành (phố) Trăng' trong tiếng Lào. Cách phát âm và chính tả hiện đại của Lào không rõ ràng phản ánh từ tiếng Pali này. Tuy nhiên, tên gọi trong tiếng Thái เวียงจันทน์ vẫn giữ nguyên gốc từ nguyên bản, và 'Thành Đàn hương' là nghĩa gốc của tên gọi này. Cách phát âm theo các ngôn ngữ chữ Latin (Vientiane) có nguồn gốc từ tiếng Pháp, và phản ánh sự khó khăn của người Pháp trong việc phát âm phụ âm 'ch' của tiếng Lào; một cách Latin từ chữ cái Lào (ວຽງຈັນ) là 'Viangchan', từ chữ cái Thái (เวียงจันทน์) là 'Wiangchan'.
Khí hậu
Viêng Chăn có khí hậu xavan (Köppen Aw) với mùa khô và mùa mưa riêng biệt. Mùa khô ở Viêng Chăn kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3. Tháng 4 đánh dấu sự bắt đầu của mùa mưa, kéo dài bảy tháng. Tổng thể, Viêng Chăn ẩm và nóng suốt năm, mặc dù vẫn có sự dao động nhẹ về nhiệt độ.
Dữ liệu khí hậu của Viêng Chăn (1951–2000) | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 35.6 (96.1) |
37.8 (100.0) |
40.0 (104.0) |
41.1 (106.0) |
38.9 (102.0) |
37.8 (100.0) |
36.1 (97.0) |
37.2 (99.0) |
38.9 (102.0) |
38.9 (102.0) |
34.4 (93.9) |
33.4 (92.1) |
41.1 (106.0) |
Trung bình ngày tối đa °C (°F) | 28.4 (83.1) |
30.3 (86.5) |
33.0 (91.4) |
34.3 (93.7) |
33.0 (91.4) |
31.9 (89.4) |
31.3 (88.3) |
30.8 (87.4) |
30.9 (87.6) |
30.8 (87.4) |
29.8 (85.6) |
28.1 (82.6) |
31.1 (88.0) |
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) | 16.4 (61.5) |
18.5 (65.3) |
21.5 (70.7) |
23.8 (74.8) |
24.6 (76.3) |
24.9 (76.8) |
24.7 (76.5) |
24.6 (76.3) |
24.1 (75.4) |
22.9 (73.2) |
19.3 (66.7) |
16.7 (62.1) |
21.8 (71.2) |
Thấp kỉ lục °C (°F) | 2.4 (36.3) |
7.6 (45.7) |
12.1 (53.8) |
17.1 (62.8) |
20.0 (68.0) |
21.1 (70.0) |
21.2 (70.2) |
21.1 (70.0) |
21.2 (70.2) |
12.9 (55.2) |
8.9 (48.0) |
5.0 (41.0) |
2.4 (36.3) |
Lượng mưa trung bình mm (inches) | 7.5 (0.30) |
13.0 (0.51) |
33.7 (1.33) |
84.9 (3.34) |
245.8 (9.68) |
279.8 (11.02) |
272.3 (10.72) |
334.6 (13.17) |
297.3 (11.70) |
78.0 (3.07) |
11.1 (0.44) |
2.5 (0.10) |
1.660,5 (65.38) |
Số ngày mưa trung bình | 1 | 2 | 4 | 8 | 15 | 18 | 20 | 21 | 17 | 9 | 2 | 1 | 118 |
Độ ẩm tương đối trung bình (%) | 70 | 68 | 66 | 69 | 78 | 82 | 82 | 84 | 83 | 78 | 72 | 70 | 75 |
Số giờ nắng trung bình tháng | 254.4 | 214.3 | 216.8 | 226.3 | 207.1 | 152.9 | 148.6 | 137.1 | 137.7 | 247.7 | 234.3 | 257.5 | 2.434,7 |
Nguồn 1: Tổ chức Khí tượng Thế giới | |||||||||||||
Nguồn 2: NOAA (nắng, độ ẩm 1961–1990) |
Kinh tế
Viêng Chăn đang đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của Lào. Trong những năm gần đây, thành phố đã phát triển kinh tế một cách nhanh chóng nhờ vào vốn đầu tư từ nước ngoài. Vào năm 2011, Sàn giao dịch chứng khoán đã mở cửa với hai cổ phiếu được niêm yết.
Thắng cảnh
Xứ Lào là đất của những ngôi chùa linh thiêng. Tại đây có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như That Luang, Chùa Phra Keo, Chùa Ông Tự, Chùa Si Muong, Chùa Sisaket, và Vườn Phật Suốn Xiêng Khuôn (hay còn gọi là Vườn Chư Phật) với hàng trăm bức tượng điêu khắc theo nền văn hóa Phật giáo, nằm trong vùng Thà-Đừa, cách Vientiane khoảng 25 km, gần cầu Hữu Nghị Lào-Thái.
Ở Vientiane có một ngôi chùa lớn mang tên Bàng Long, rất tráng lệ. Từ chợ sáng trên đại lộ Lan Xang, có thể nhìn thấy đài Anou Savary (đài chiến sĩ vô danh) với tên gọi mới là Khải Hoàn Môn (Patuxay) từ năm 1975, nằm giữa bùng binh giữa phố Vientiane và khu vực That Luang. Đài Anou Savary được xây dựng từ năm 1958, phần dưới và bên ngoài mô phỏng theo đài Arc de Triumphe tại Paris, phần trên và bên trong thể hiện nét kiến trúc đặc trưng của Lào. Từ tầng cao nhất của Anou Savary, người ta có thể nhìn toàn cảnh Vientiane.
Con đường chính ở Vientiane là đường Sí Mương-Samsenthay, sầm uất và phồn thịnh, là dấu ấn kiến trúc còn sót lại từ thời Pháp thuộc, chạy xuyên suốt từ khu That Khao lên trung tâm Ô-Điên – SengLao, đi qua vùng Si Khay – Wattay, và sau đó bất ngờ dừng lại, nhường chỗ cho kiến trúc truyền thống của Lào: nhà sàn.
Vientiane nằm bên bờ sông Mê Kông. Bên kia bờ là tỉnh Nong Khai (Thái Lan). Khúc sông này, năm 1994, chính phủ Úc đã tài trợ xây dựng Cầu Hữu Nghị Lào-Thái (Lao-Thai Friendship Bridge) dài 1240m. Nhờ chiếc cầu này, đã mở ra một giai đoạn mới trong phát triển du lịch giữa hai nước, nối liền hành lang Đông – Tây và khai thác tiềm năng du lịch của cả ba quốc gia Đông Dương.
Bờ sông Vientiane vẫn chưa được khai thác đầy đủ, chủ yếu là những quán ăn, quán nhậu. Quán nhậu ven bờ sông Vientiane có rất nhiều món ăn đặc sản, phong phú và lạ miệng.
Ngoài ra, còn có nhiều điểm tham quan khác nữa.
- Ho Phra Kaeo
- Bảo tàng quốc gia Lào
- Thạt Luổng
- Talat Sao Chợ sớm
- That Dam
- Wat Ong Teu Mahawihan
- Wat Sok Pa Luang
Viêng Chăn là nơi duy nhất có nhà thờ Hồi giáo, sân bowling, nhà thờ và discotheque ở Lào. Tại Viêng Chăn cũng có nhiều khách sạn sang trọng.
Các trường đại học và cao đẳng
- Đại học quốc gia Lào
Hạ tầng giao thông
Cầu Hữu nghị Thái-Lào, xây dựng vào những năm 1990, bắc qua sông cách vài dặm về phía hạ lưu thành phố Nong Khai, qua biên giới, là một trong những điểm giao lưu chính giữa hai nước. Hiện nay, một tuyến đường sắt quốc tế đang được lắp đặt trên cầu, nhưng điểm ga tàu nằm lệch về phía nam bên trong biên giới Thái Lan.
Viêng Chăn có Sân bay quốc tế Wattay.