Đề bài: Tính dân tộc trong Việt Bắc của Tố Hữu
4 bài văn mẫu về Việt Bắc thể hiện sự đậm đà của tình dân tộc trong nghệ thuật thơ Tố Hữu
Mẫu số 1: Việt Bắc thể hiện tận cùng tính dân tộc trong nghệ thuật thơ của Tố Hữu
Tố Hữu, đại diện cho thể thơ lục bát, để lại dấu ấn sâu sắc với bài thơ 'Việt Bắc'. Nhắc đến ông, người đọc liền mường tượng đến 'Việt Bắc' - một bản tình ca tràn ngập cảm xúc, vẽ nên bức tranh đẹp bình dị của quê hương, đất nước và con người. Bài thơ không chỉ là sự ghi chép mà còn là biểu tượng của lòng thổn thức dân tộc.
'Việt Bắc' ra đời sau chiến thắng lịch sử chống Pháp, đưa người đọc quay về ký ức lưu luyến và sâu sắc về những năm tháng kháng chiến. Tác giả Tố Hữu, một trong những người lính chiến khu, chia tay nơi ấy để về Hà Nội, viết lên những tâm tư chân thành và hồi tưởng về quãng thời gian quý báu.
Tính dân tộc hiện hữu trong bài thơ qua hình ảnh đơn giản và tinh tế của chiếc 'áo chàm', biểu tượng cho nền văn hóa truyền thống. Chiếc áo là không gian tâm huyết của dân tộc, là biểu tượng của sự thủy chung và gắn bó với quê hương.
'Áo chàm đồng hành buổi chia ly
Đối diện, bàn tay kể lể hôm nay'
Hình ảnh 'Áo chàm' trở thành biểu tượng anh hùng, chân thực của người Việt Bắc. Câu thơ tôn vinh tình người Việt Nam, khiến ký ức chiến tranh gần gũi, nhưng đầy ý nghĩa. Bài thơ là cuộc đối thoại ngọt ngào, sâu lắng giữa 'mình - ta':
'Mình về, mình nhớ ta
Mười lăm năm trôi qua, mặn nồng.
Mình về, mình còn nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?'
Trong khoảng thời gian 15 năm đầy biến động, chiến sĩ và dân Việt Bắc gắn bó vững chắc, điều này nở ra những câu chuyện của lịch sử với tình cảm chân thành.
Bên cạnh đó, hình ảnh của chiến sĩ cách mạng hiện hữu, chân thực và đậm đà tình dân tộc. Trong những phút chia tay, họ đau lòng không muốn xa cách:
'Tiếng ai gọi bên bờ cồn
Ngập ngừng trong tim, lo lắng bước đi
Áo chàm làm nền buổi phân biệt
Nắm tay nhau, biết chẳng nói điều gì hôm nay'
Chỉ một sự 'nắm tay' nhưng khó diễn đạt hết cảm xúc. Việc nắm tay nhau là như truyền đạt sức mạnh và hơi ấm từ người ở lại sang người ra đi. Họ có lòng trung thành và mạnh mẽ:
'Ta với mình, mình với ta
Lòng ta trước sau mặn nồng và kiên định
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn tình nghĩa bền vững không ngừng'
Hình ảnh của 'mình' lặp lại, mang thông điệp sâu sắc. Người chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc, họ như hòa quyện thành một, không rõ ràng phân biệt. Tình ân nghĩa giữa họ không thể đong đếm. Khi xa cách Việt Bắc, người chiến sĩ mang theo những kí ức, nhớ về thiên nhiên hùng vĩ và tình người Việt Bắc. Tuy nhiên, họ vẫn giữ tinh thần lạc quan và yêu đời.
Cùng với hình ảnh con người, hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc cũng thể hiện tính dân tộc mạnh mẽ. Bức tranh tứ bình được Tố Hữu mô tả sinh động và cuốn hút:
'Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung'
Con người và thiên nhiên hòa quyện. Thiên nhiên là bối cảnh cho sự hiện hữu của con người. Câu lục là thiên nhiên, câu bát là con người. Mặc dù có vẻ như chúng không liên quan, nhưng thực tế lại không phải như vậy. Con người làm cho thiên nhiên trở nên đẹp đẽ và rực rỡ hơn. Họ xua đi cái lạnh của thiên nhiên, hòa mình vào với nó để thực hiện những công việc hàng ngày, tạo nên hình ảnh đẹp, nên thơ.
Việt Bắc trong thơ Tố Hữu hiện lên với những địa danh lịch sử hùng vĩ, huyền bí: Tân Trào, Hồng Thái, Ngòi Thia sông Đáy, sông Lô, Núi Hồng....
Cảnh và con người trong bài thơ Việt Bắc gần gũi, giản dị nhưng toát lên sự ấm áp và truyền thống dân tộc mạnh mẽ.
Tính dân tộc được thể hiện một cách rõ nét ở mặt hình thức. Thứ nhất, thể thơ lục bát truyền thống với sự đối đáp giữa đôi trai gái, kẻ ở lại và người về xuôi. Lục bát là biểu tượng thơ dân tộc mà mọi người Việt Nam quen thuộc. Trong bài thơ, tác giả sử dụng ngôi từ 'mình-ta' để thể hiện toàn bộ tâm tư và tình cảm của mình:
'Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?'
Tính dân tộc thể hiện qua ngôn ngữ và nhạc điệu: Ngôn ngữ giản dị, gần gũi với đời thường, dễ thuộc và kết hợp với nhạc điệu uyển chuyển, nhẹ nhàng, thủ thỉ và đằm thắm, ngọt ngào êm dịu.
'Mình đi, nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, mây mù bên đường
Mình về, nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi rụng, măng mai già'
Ngoài ra, hình ảnh thơ cũng thấm nhuần tinh thần dân tộc. Những hình ảnh giản dị như 'trám bùi', 'măng mai', 'trăng', 'nắng', 'bản'... trở nên tự nhiên và tinh tế trong thơ Tố Hữu.
Bài thơ 'Việt Bắc' là đỉnh cao của văn học Việt Nam, là tình khúc về thiên nhiên và con người Việt Bắc, là tiếng hát thủy chung của người cách mạng với đồng bào, là tình yêu sâu sắc của Tố Hữu dành cho miền đất đáng nhớ. Sử dụng ngôn ngữ giản dị, gần gũi với đời thường cùng với thủ pháp nghệ thuật như lặp từ, hòan dụ, bài thơ lột tả nỗi nhớ da diết của tác giả với mảnh đất đầy kí ức và kỷ niệm. Kết hợp với thể thơ lục bát nhuần nhuyễn, bài thơ truyền đạt cảm xúc của Tố Hữu một cách tuyệt vời, làm nổi bật tính dân tộc sâu sắc.
Ngoài Việt Bắc thể hiện đậm đà tính dân tộc trong nghệ thuật thơ Tố Hữu, hãy khám phá thêm về Vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận qua cái nhìn độc đáo của từng nhà thơ. Cảm nhận về đoạn thơ trong bài Tây Tiến và Việt Bắc cũng như Cảm nhận về khổ 10 trong bài Việt Bắc để bổ sung kiến thức.
Mẫu số 2: Việt Bắc thể hiện sự đậm đà của tình cảm dân tộc trong nghệ thuật thơ Tố Hữu
Tố Hữu (1920 - 2002), tên thật Nguyễn Kim Thành, sinh tại Thừa Thiên Huế, là biểu tượng của thơ ca cách mạng và kháng chiến.
Cuối năm 1954, chiến tranh kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thành công. Trung ương Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc, nơi đã làm nên kinh sử chiến khu. Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu ghi chép tình cảm và mối liên kết sâu sắc giữa nhân dân Việt Bắc với cán bộ và chiến sĩ cách mạng. Bài thơ đậm chất dân tộc và là biểu tượng của tình yêu thương, nghĩa tình trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Tính dân tộc là bản chất thuần Việt, gần gũi với linh hồn người con Việt Nam. Trên nhiều khía cạnh như kết cấu, hình ảnh, thể thơ, giọng điệu..., bài thơ này thể hiện đầy đủ đặc trưng của tính dân tộc.
Tính dân tộc của bài thơ Việt Bắc được thể hiện trực tiếp qua kết cấu đối đáp mang hình ảnh của ca dao giao duyên.
Đa dạng bài ca dao xưa thường ứng dụng hình thức đối đáp để diễn đạt tình cảm chân thành của nhân vật trữ tình:
Mình nói với ai mình nói đến chủ yếu là son
Ta đi qua ngõ, thấy con mình bò ...
- Mình nói với ta mình chưa lấy chồng
Ta đi qua ngõ mình bồng con ra ...
Kiểu kết cấu đối đáp trong ca dao giao duyên là một hình thức sáng tạo cho nhân vật trữ tình thể hiện cảm xúc và tình cảm với đối tượng một cách độc đáo, tạo ra không gian bộc lộ cảm xúc một cách tự do.
Tố Hữu tài dụng kiểu kết cấu này một cách tuyệt vời trong bài thơ, không nhằm nói về tình yêu cá nhân mà là để ca ngợi mối liên kết mạnh mẽ giữa chính phủ cách mạng và quê hương cách mạng với nhân dân Việt Bắc.
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng?
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Ở đây, 'mình - ta' là sự phân đôi của một chủ thể. 'Tôi' trữ tình tách bản thân ra, một phần tâm hồn đã ngấm đất Việt Bắc đang tương tác với người cán bộ về xuôi. Nhân vật trữ tình thể hiện tình cảm ân nghĩa, thủy chung giữa cán bộ cách mạng và quê hương Việt Bắc.
Mình về mình có nhớ không
- Mình đi có nhớ những ngày
- Mình về có nhớ chiến khu
- Mình về, rừng núi nhớ ai
- Mình đi, có nhớ những nhà...
'Mình - ta' là bản điệu đan xen, tạo nên âm nhạc của những đợt hoài niệm, kí ức tươi đẹp như vừa xảy ra. Tất cả được mô tả tỉ mỉ, cụ thể đến mức độ người đọc có thể hình dung và tái hiện từng đường nét, hình ảnh của Việt Bắc và những con người ở đây.
Kiểu kết cấu đối đáp 'mình - ta' do Tố Hữu áp dụng độc đáo, sáng tạo. Nó tạo ra giọng điệu tâm tình ru vỗ lúc nhẹ nhàng, như thủ thỉ, lúc lắng đọng trong nỗi nhớ, niềm thương, lúc trào dâng như những đợt sóng cảm xúc mạnh mẽ. Sử dụng kiểu đối đáp từ ca dao, người đọc tự nhiên hòa mình vào tác phẩm mà không bị rơi vào sự rối bời của câu từ, ngôi từ. Giọng điệu ru vỗ của bài thơ làm hòa hợp linh hoạt với dòng cảm xúc của 'mình-ta' ở mọi khoảnh khắc.
Đối đáp trở thành một kiểu kết cấu mở, khám phá, giúp bộc lộ cảm xúc một cách tự do, không có giới hạn. Đây là kiểu kết cấu tạo nên không gian cho nhân vật trữ tình mở lòng, thể hiện tâm trạng và cảm xúc của mình. Với mỗi người Việt Nam, kiểu kết cấu đối đáp như này là quen thuộc, như một góc ký ức xa xưa khiến họ cảm thấy gần gũi khi thưởng thức bài thơ Việt Bắc.
Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc hiển thị qua thể thơ lục bát với tiết tấu mềm mại, nhịp nhàng của câu thơ.
Thể thơ lục bát, một hình thức thơ gắn liền với tinh thần dân tộc Việt Nam, trở nên rất hiệu quả khi thể hiện những tình cảm sâu sắc, những ký ức vô tận và khiến nổi bật những mối quan hệ mặn nồng. Đây là loại thể thơ được ưa chuộng rộng rãi trong văn hóa Việt Nam, xuất hiện đặc biệt thành công trong ca dao, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm...
Tố Hữu khéo léo sử dụng thể thơ lục bát như một công cụ tinh tế, đặc biệt thành công trong việc diễn đạt tình cảm sâu sắc giữa cán bộ cách mạng và quê hương kháng chiến. Nếu như ông chọn ngũ ngôn, lục ngôn hoặc thơ tám chữ, có lẽ sẽ khó khăn hơn trong việc truyền đạt cái vị ngọt ngào, tình nghĩa của con người Việt Bắc và cái đằm thắm của những ký ức.
Nỗi xúc động, nghẹn ngào của 'người đi - kẻ ở' hiện hữu rõ nét trong lòng người đọc:
'Mình với ta, ta với mình
Trái tim ta rộn sóng đam mê thăng trầm
Ta đi, ta nhớ, ta về
Mối tình chảy sâu, nước non gìn giữ'.
Các câu thơ lục át khoa thai, nhịp nhàng, đặc biệt hiệu quả trong việc thức tỉnh cảm xúc của độc giả. Họ tự nhiên đồng hành với dòng cảm xúc của nhân vật, sống đắm chìm trong đó, cùng hồi sinh với nó. Từ rừng cây nứa, bờ tre, mái nhà, cây đa; từ hoa chuối, hoa mơ, Ngòi Thia, sông Đáy đến Phủ Thông, đèo Giàng..., tất cả đều gợi nhớ đau thương. Những hình ảnh ấy thấm nhuần vào trái tim, trở thành 'cõi nhớ' sâu sắc trong tâm hồn mỗi người, đã từng liên kết với Việt Bắc.
Thể thơ lục bát là yếu tố chính quyết định giọng điệu, nhịp nhàng của bài thơ. Nhịp của từng câu thơ trong Việt Bắc được xây dựng nhẹ nhàng, thường tuân theo nhịp 2/2/2, 3/3, 2/2/2/2, 4/4. Ví dụ:
- Nơi đâu bóng tối khuất quân thù (2/2/2)
Nhìn lên Việt Bắc, Chủ tịch Hồ sáng soi (4/4)
- Ta đi, ta nhớ, ta về (2/2/2)
Nguồn nước nào, tình nghĩa bấy nhiêu (4/4)
Nhịp thơ là nhịp điệu của cảm xúc, làm thức tỉnh kí ức, vang vọng trong trái tim người đi - người ở và người đọc. Cặp lục bát vang nhịp đều, mang đến mỗi nốt nhạc cảm xúc 'có nhớ'. Tiếng đó lặp đi lặp lại, như những sóng thương nhớ liên tục cuồn cuộn:
'Rừng xanh, hoa chuối nở tươi
Đèo cao, nắng sáng lấp lánh như dao găm
Ngày xuân, mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve hòa nhạc rừng, vàng lên phách đổ
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu, trăng rọi bình yên
Nhớ tiếng hát ân tình thủy chung'.
Việt Bắc hiện lên toàn cảnh: con người đa dạng, không gian rộng lớn, thời gian bốn mùa được tổng hợp, nhấn mạnh sự đẹp đẽ của núi rừng Việt Bắc. Mỗi cặp lục bát tạo nên bức tranh 'hoa cùng người'. Bốn cặp lục bát đan xen tạo thành bức tranh cổ điển cân đối.
Bức tranh tự nhiên được làm sôi nổi bởi nỗi nhớ. Nỗi nhớ làm nổi bật mỗi hình ảnh, mỗi màu sắc. Bức tranh nền cho con người, bóng dáng con người là điểm nhấn sinh động giữa phong cảnh thiên nhiên tươi thắm, sống động. Hoa và con người hòa mình, tạo nên sự tươi sáng. Bức tranh mùa đông, hoa chuối đỏ, nắng trải trên đèo cao, đặc trưng với hình ảnh 'dao găm' thắt lưng, đặc trưng của người Việt Bắc. Bức tranh mùa xuân, hoa mơ và người đan nón mềm mại đang 'chuốt từng sợi giáng'. Bức tranh mùa hạ, với tiếng ve hòa nhạc rừng và 'cô em gái hái măng một mình'. Bức tranh mùa thu, ánh trăng hòa bình và tiếng hát ân tình thủy chung. Thể thơ lục bát đã hô biến bức tranh tứ bình Việt Bắc thành hình ảnh linh thiêng. Nó truyền đạt cảm xúc, kỷ niệm và tình thương của con người.
Cấu trúc tiểu đối đồng nhất ở các câu hát tạo nên bức tranh âm nhạc thấm đẫm tình cảm, đánh thức kí ức trong tâm hồn người đi và người ở. Cấu tạo đối vừa nhấn mạnh ý của từng vần, vừa mở cửa ý ngoài lời. Những câu thơ kèm theo tiết tấu tạo ra ý nghĩa ngay trong khoảng trống giữa từng từ, câu hoặc giữa các đoạn thơ.
Tính dân tộc là đặc điểm nổi bật tại Việt Bắc, tạo nên sức hút đặc biệt cho bài thơ. Tính dân tộc giúp nhà thơ chuyển đạt tư tưởng hiện đại, tiên tiến. Đây là tác phẩm nổi bật của Tố Hữu, ngợi ca những ngày hùng vĩ của dân tộc, những chiến công hào hùng, vẻ đẹp của đất Việt Bắc... Mọi thứ được tái hiện qua một hình thức đặc biệt mà Tố Hữu đã lựa chọn và sử dụng. Việt Bắc không chỉ truyền đạt tinh thần thời đại mà còn gợi lên những bài ca dao.
Mẫu số 3: Việt Bắc và tính dân tộc trong thơ Tố Hữu
Thơ như một cây đàn, vang lên điệu âm của tâm hồn, nhịp thơ của con tim, diễn đạt mọi cung bậc cảm xúc, từ niềm vui, nỗi buồn đến sự cô đơn và tuyệt vọng. Bài thơ Việt Bắc là một tác phẩm như thế, diễn đạt tất cả những cảm xúc, tình cảm của con người. Thông qua đoạn trích 'Việt Bắc', tính dân tộc hiện hữu rõ ràng qua từng câu, từng chữ.
Đúng không khi nói rằng, với nhà thơ, thơ là phương tiện quan trọng để thể hiện cảm xúc, chỉ có cảm xúc chân thật mới tạo ra tác phẩm văn học chân chính. Càng mãnh liệt cảm xúc, thơ càng ảnh hưởng sâu sắc trái tim người đọc. Tố Hữu, nhà thơ trữ tình và chính trị xuất sắc, đã sáng tạo nghệ thuật với sứ mệnh cao cả. Trong tác phẩm của mình, ông luôn phản ánh chân thực quá trình cách mạng. Việt Bắc, một bức tranh tích cực về dân tộc, là biểu tượng cho sự thành công của văn chương Tố Hữu.
Tháng 7, 1957, hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được kí kết, tháng 10, 1954, Trung ương Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc trở về Hà Nội, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Tính dân tộc của tác phẩm không chỉ xuất hiện trong thể thơ lục bát, đối đáp 'ta', 'mình', mà còn hiển lộ qua hình ảnh giản dị và tình nghĩa thủy chung gắn bó.
Mình về mình nhớ ta
Mười lăm năm, thiết tha, mặn nồng...
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong lòng, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi chia ly
Cầm tay nhau, không nói gì hôm nay.
Đó là buổi chia tay đầy xúc động giữa người Việt Bắc và cán bộ miền xuôi, khoảnh khắc bồi hồi trong bài thơ 'Mười lăm năm ấy' là giai đoạn đầy thách thức nhưng cũng hùng vĩ của dân tộc. Đoạn thơ này gợi nhắc về tình quân dân, lối đối đáp 'mình', 'ta' đậm đà tính dân tộc, thể hiện tâm trạng của người đi và kẻ ở. Áo chàm trở thành biểu tượng của lòng son sắt, thủy chung trong giờ phút chia ly, là sự gắn bó tình cảm của dân tộc Việt Nam.
Tính dân tộc trong tác phẩm hiện lên qua những hồi ức về thiên nhiên và con người. Những bức tranh thiên nhiên với ánh nắng, cảnh mưa, sương mù... quay chậm như một bức tranh thơ mộng về Việt Bắc. Những con người lam lũ, chăm chỉ với những công việc thầm lặng, họ mang theo lòng căm thù sâu sắc với giặc, 'khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh', đồng thời thể hiện lòng son sắc và tinh thần lạc quan, 'gian nan đời vẫn ca vang núi đèo'.
Hình ảnh con người trở nên tuyệt vời khi hòa mình vào thiên nhiên qua bức tranh thiên nhiên bốn mùa.
Rừng xanh, hoa chuối đỏ rực
Đèo cao, nắng sáng lung linh
Ngày xuân, rừng trắng bung nở
Nhớ người đan nón, chuốt từng sợi giang.
Ve kêu, rừng phách vàng đổ
Nhớ cô em gái, hái măng một mình
Rừng thu, trăng rọi hòa bình,
Nhờ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Được đánh giá là đoạn thơ mang tính dân tộc cao nhất trong tác phẩm, với hình ảnh thiên nhiên và con người làm việc thầm lặng. Bắt đầu với câu hỏi tu từ, nhà thơ mở ra bức tranh đẹp về Việt Bắc.
'Ta về mình, ta nhớ ta,
Những hoa, nhớ cùng người'
Nhà thơ hỏi không phải để đợi câu trả lời, mà để biểu đạt tâm trạng. Hoa là biểu tượng của Việt Bắc, người là con người Việt Bắc. Từ 'cùng' trở thành sợi dây kết nối hoa và người.
Bức tranh mùa đông mở đầu cho bức tranh bốn mùa, giữa rừng già với không gian bạt ngàn, hình ảnh 'đỏ tươi' của hoa chuối nổi bật. Điều này tạo nên sự ấm áp, làm cho thiên nhiên gần gũi với con người. Trong bức tranh đó, con người xuất hiện với tư thế 'dao cài thắt lưng', mạnh mẽ và khỏe khoắn.
Từ không gian rừng xanh, tác giả chuyển sang thời gian, 'ngày xuân' với hình ảnh 'mơ nở trắng rừng', tạo nên không gian tinh khiết và nhẹ nhàng. Trong thời gian đó, con người hiện lên với tư thế tỉ mỉ, 'chốt từng sợi giang', một chi tiết nhỏ nhưng đáng nhớ.
Mùa hè khác biệt với mùa đông và xuân. Bức tranh mùa hè mở ra với tiếng ve rộn cùng màu vàng của hoa, đặc biệt là động từ 'đổ' tạo nên hiệu ứng dây chuyền. Khi ve vang lên, rừng hoa bùng nổ, làm cho không gian trở nên sôi động, tươi sáng.
Nhà thơ kết thúc bức tranh tử bình với mô phỏng mùa thu. Bức tranh thu hiện lên 'rừng thu' và thời gian 'trăng rọi'. Ánh trăng soi sáng xóm làng Việt Bắc, biểu tượng của sự bình yên và niềm tin vào chiến thắng của cách mạng. Tiếng hát 'Ân tình thủy chung' như là niềm tin bất diệt của những người cán bộ kháng chiến.
Tính dân tộc không chỉ thể hiện qua những cuộc hành quân hào hùng, mà còn qua vai trò quan trọng của Cách mạng và chiến khu Việt Bắc.
'Đường Việt Bắc chúng ta đi
Đêm đêm rộn ràng như đất động
Quân chiến, hào hùng, trùng phùng,
Ánh sao trên đầu súng, bạn và chiếc mũ nan
Dân công đỏ rực từng đoàn
Bước chân trên nền đá nát, ngọn lửa bùng cháy.'
Với những từ ngữ như 'đêm đêm', 'rầm rập', 'Điệp điệp', 'trùng trùng', cùng việc kể về bước chân 'nát đã muốn tàn lửa bay', nhà thơ vẽ nên hình ảnh hào hùng, anh dũng của con người Việt Bắc. Mặc cho gian khó, họ sẵn sàng hy sinh, luôn bước đi với niềm tin rằng, dù 'nghìn đêm thăm thẳm, sương dày', nhưng 'đèn pha vẫn sáng như ngày mai lên', bày tỏ niềm tin vào một tương lai rạng ngời.
'Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa bình tây bắc Điện Biên hân hoan,
Vui từ Đồng Tháp, An Khê,
Vui lên Việt Bắc, đèo de núi Hồng'
Chiến thắng đó là kết quả của sự đoàn kết toàn dân tộc và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Bác Hồ. Viết về chiến thắng ấy, Tố Hữu làm như kêu gọi nhớ lại khối đồng lòng của dân tộc Việt Nam.
Không chỉ trong nội dung mà tinh thần đoàn kết dân tộc trong Việt Bắc còn thể hiện qua hình thức nghệ thuật, với thể thơ lục bát, thuần Việt, và sự đối đáp quen thuộc trong ca dao. Sự đan xen giữa các vè trong ca dao làm cho bài thơ trở nên dễ nhớ, đặc biệt với những hình ảnh giản dị, từ ngữ trong sáng. Tất cả hòa quyện, tạo nên tính dân tộc sâu sắc, nồng thắm trong tác phẩm.
Mặc dù tác phẩm đã khép lại, mỗi lần đọc đoạn trích, hình ảnh của Việt Bắc vẫn hiện lên hào hùng, với tình quân dân gắn bó, tình dân tộc sâu sắc. Tố Hữu như nhắc nhở chúng ta hãy sống và đóng góp để đất nước trở nên tốt đẹp hơn.
Bài mẫu số 4: Việt Bắc thể hiện rất đậm đà tính dân tộc trong nghệ thuật thơ Tố Hữu
'Cuộc sống hiện đại, thơ anh trở về nguồn cội hồn thơ cổ điển của dân tộc' - Nguyễn Đình Thi nhận xét về thơ Tố Hữu. Đọc thơ Tố Hữu, ta cảm nhận sức mạnh của bản sắc dân tộc đậm đà, phảng phất trong 'hồn thơ' của quá khứ. Việt Bắc, như nhiều bài thơ khác, mang đậm vẻ 'cổ điển'. Đọc Việt Bắc, ta hòa mình vào sức sống mạnh mẽ của dân tộc.
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu thể hiện rõ nhất ở hình thức. Việt Bắc là một bài thơ lục bát xuất sắc nhất của ông, âm điệu lục bát nhuần nhuyễn, tinh tế, đạt đến mức mẫu mực:
Vùng rừng núi kia gợi nhớ người
Cỏ trám bùi rụng, măng mai già lụi
Nhà cũ đẹp lòng mình nhớ mãi
Lau xám bằng tâm, tràn đầy lòng son.
Nghe tiếng mõ rừng chiều chiều
Cối chày kêu vang đều đều dọc suối xa.
Nhớ về tình yêu của mình
Trăng lên nơi đỉnh núi, nắng chiều lưng dốc.
Những câu lục bát ấy gần giống như những câu ca dao dân gian, là những đường nét cổ điển tinh tế trong văn hóa Việt Nam. Tiếng Việt ẩn sau những câu thơ ấy bình dị và sâu lắng, như những giai điệu trữ tình đằng sau những từ ngôn.
Tuy nhiên, điều khiến Việt Bắc nổi bật nhất có lẽ là cấu trúc độc đáo. Tố Hữu đã tạo ra một bức tranh toàn diện trong khoảng thời gian dài mười lăm năm (khi kháng Nhật, thời còn Việt Minh) bao quát không gian rộng lớn, từ 'Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào' đến 'Nhớ từ Cao Lạng sang Nhị Hà'. Bài thơ muốn trở thành diễn ca lịch sử, nhưng thơ sĩ chọn cách dùng cấu trúc lối Hát giao duyên. Bài thơ dài như một cuộc hát đối đáp nam nữ, như những bản trữ tình trong Giã bạn hay Tiễn dặn người yêu. Cuộc chia tay lớn của cán bộ Đảng và Chính phủ kháng chiến với Việt Bắc trở thành cuộc chia tay của đôi trai gái. Tình yêu của họ trở thành góc nhìn để quan sát toàn cảnh Việt Bắc, với 'Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng'.
Sự kiện chính trị đã được biến đổi thành thơ ca tâm tình, điều này là đặc trưng của lối thơ trữ tình - chính trị của Tố Hữu. Việc 'dời đô' (Việt Bắc là thủ đô kháng chiến - Tố Hữu gọi là 'Thủ đô gió ngàn') trở thành câu chuyện ân tình chung thủy giữa người cách mạng và rừng núi chiến khu, giữa họ và đồng bào, giữa họ và quá khứ, giữa họ và chính bản thân mình. Cuộc chia tay lớn của cán bộ Đảng và Chính phủ kháng chiến với Việt Bắc được thu gọn trong cuộc chia tay của một đôi trai gái. Đôi trai gái xưng hô nhau bằng cách dân dụ: ta - mình. Câu hỏi lớn nhất của họ trong cuộc chia tay giã bạn là về tình yêu - chung thuỷ:
Quay về thành phố vắng vẻ
Những tòa nhà cao chẳng khuất núi xanh
Đường phố ồn ào giữa phố thị
Ánh đèn sáng soi bóng trăng rơi giữa rừng
'Mình về mình có nhớ ta' là biểu tượng của tình chung thuỷ! Nhưng 'mình đi mình có nhớ mình' là sự ân tình chung thuỷ đạt đến tận cùng. Khi rời xa Việt Bắc, thoát khỏi thời gian và không gian đau thương, có thể ta quên đi chính bản thân mình. Nhưng liệu ta có nhớ về chính bản thân mình không? Bởi việc quên đi Ta cũng chính là quên Mình. Những câu hỏi thâm thúy về tình yêu đã giúp Tố Hữu dân dụ, truyền thống hóa một vấn đề cách mạng, vấn đề của hiện tại. Người con trai trả lời, ghi lại tâm trạng với một tinh thần đặc biệt.
- Khi quay về mình có nhớ mình
Mình quay về ta nhớ những bông hoa và người
- Nhà cao không che khuất non xanh
Đường phố đông đúc giục chân bước nhanh
- Đi xa mình lại nhớ mình
Ngọn suối ẩn chứa biết bao tình nghĩa
Bản chất đối đáp với lối thơ lục bát giàu hơi thở dân gian như thế đã làm cho bài Việt Bắc của Tố Hữu mang đặc điểm của một bài hát dân gian được sáng tác theo kiểu của nhân dân. Nó gần gũi với tâm hồn của cộng đồng và có thể kết nối vào văn hóa dân gian, trở thành những bản hát ru. Thậm chí, bài thơ có thể được thể hiện như một màn trình diễn dân gian rất phù hợp.
Cần phải đề cập thêm về hương vị cổ điển của bài thơ. Đây là một đặc điểm truyền thống khác của thơ của Tố Hữu. Trong bài 'Kính gửi cụ Nguyễn Du', chúng ta thấy không khí lục bát trang trọng. Thi sĩ đã sử dụng những đoạn từ của 'Truyện Kiều' để thể hiện tâm trạng đối với tác giả của 'Truyện Kiều'. Ông cũng sử dụng hình ảnh Kiều và tập Kiều để tạo nên một phong cách cổ điển cho bài thơ. Ở đây, không chỉ chúng ta thấy cấu trúc trữ tình của bài thơ, giọng điệu tứ bình của nó có một sự chuyển hướng rõ ràng về hình thức cổ điển. Các câu lục bát ở những nơi này thường rất chặt chẽ và đậm, chữ 'đúc' nhiều, chữ 'nước' ít. Hình thức của câu tiểu đối được sử dụng một cách dày dạn và biến đổi mạnh mẽ. Nhưng điều quan trọng nhất có lẽ là cách thiên nhiên được vẽ trong những câu lục bát này. Đặc biệt là trong đoạn 'Hoa cùng người', chúng ta có thể thấy ngay, thi sĩ đã sắp xếp hình ảnh theo cách xây dựng bức tranh trữ tình - một dạng của nghệ thuật cổ điển phổ biến. Hoa và người phản chiếu lẫn nhau, tôn vinh đồng thời. Bức tranh như đã tái tạo đầy đủ chu kỳ vận hành của thiên nhiên và con người Việt Bắc:
Ta về, mình có nhớ mình,
Ta về, nhớ những bông hoa và người,
Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi,
Đèo cao, nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang,
Ve kêu, rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình,
Rừng thu, trăng rọi hoà bình,
Nhớ ai, tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Bài thơ Việt Bắc thành công với nhiều khía cạnh như: ngôn ngữ, nội dung, hình tượng nhân vật trữ tình... Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là chất dân tộc, chất truyền thống đậm đà, đã làm cho bài thơ sống động, gây xúc động. Việt Bắc và các tác phẩm khác của Tố Hữu đã củng cố phong cách đặc biệt của ông trong sự nghiệp sáng tác, từ hiện đại trở về với cổ điển, hồi sinh với bản sắc dân tộc và truyền thống.
Trong khuôn khổ chương trình học môn Ngữ Văn lớp 12, phần Phân tích cảm nhận đoạn thơ trong 'Sóng' của Xuân Quỳnh và 'Vội vàng' của Xuân Diệu là một phần quan trọng mà học sinh cần tiếp cận một cách chuẩn bị.
Ngoài những điểm đã đề cập, học sinh có thể khám phá thêm về nội dung Khám phá sức mạnh từ việc bị từ chối - Bi kịch lớn nhất của Chí Phèo để chuẩn bị cho buổi học sắp tới.