Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức thơ Đường luật qua một số bài thơ trung đại đã học mang đến gợi ý cách viết chi tiết và 2 bài văn mẫu xuất sắc, đạt điểm cao của các bạn học sinh lớp 10.
TOP 2 mẫu Báo cáo kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức thơ Đường luật rất đặc sắc trong bài viết dưới đây sẽ giúp các bạn có thêm nhiều gợi ý học tập, mở rộng kiến thức để biết cách trả lời câu hỏi trang 56 Ngữ văn 10 sách Cánh diều tập 1. Ngoài ra, các bạn có thể tham khảo thêm: viết đoạn văn với đề tài Mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến luôn mang một nỗi buồn sâu thẳm, phân tích Cảm xúc mùa thu, cảm nhận bài Cảm xúc mùa thu và nhiều tài liệu khác tại chuyên mục Văn 10 Cánh diều.
Đề bài: Em hãy viết báo cáo kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức thơ Đường luật qua một số bài thơ trung đại đã học
Dàn ý báo cáo kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức thơ Đường Luật
1. Giới thiệu
- Trình bày vấn đề được chọn để nghiên cứu: đặc điểm hình thức thơ Đường Luật qua một số bài thơ trung đại đã được học.
- Đề cập đến lí do, mục đích, phương pháp nghiên cứu.
+ Lí do: Cảm thấy quan tâm đến thơ Đường Luật sau khi tiếp xúc và tìm hiểu qua một số bài thơ trung đại.
+ Mục đích: Giúp mọi người hiểu rõ và phấn khích hơn khi học về thơ Đường Luật.
+ Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng tài liệu từ sách vở.
2. Nội dung
- Giới thiệu một số bài thơ Đường Luật đã học hoặc biết đến.
- Phân tích cấu trúc tổng quan của một bài thơ Đường Luật dựa trên những bài đã tìm hiểu.
- Giới thiệu về quy luật về vần, đối, niêm, và luật trong thơ Đường Luật.
Nhìn chung, tóm tắt các vấn đề đã được trình bày.
Tóm tắt kết quả của nghiên cứu về đặc điểm hình thức của thơ Đường Luật - Mẫu 1.
Thơ Đường Luật là một dạng thơ phổ biến trong văn học các quốc gia ở khu vực văn hóa Đông Á thời Trung Đại.
Thơ Đường Luật tập trung vào nghệ thuật với một phạm vi rất đa dạng.
Trong hệ thống thể loại văn học của Việt Nam, thơ Đường Luật có một lịch sử lâu dài và từng được coi là trung tâm của thi ca Việt Nam trong một thời gian dài.
Những bài thơ đã được đọc: Bánh trôi nước, Vượt qua Đèo Ngang, Bạn đến nhà chơi, Tâm trạng tại nhà tù Quảng Đông, Đập đá ở Côn Lôn,...
Phân tích tác phẩm thơ Vượt qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng trong văn học trung đại của nước ta. “Vượt qua Đèo Ngang” là một tác phẩm đặc biệt biểu hiện phong cách thơ của bà. Bài thơ đã miêu tả cảnh thiên nhiên tại Đèo Ngang rất tự nhiên và hoang sơ, trong khi vẫn thấy được sự sống của con người. Đồng thời, nhà thơ cũng gửi đi thông điệp về lòng yêu nước và nhớ nhà.
Tác giả đã mô tả cảnh thiên nhiên ở Đèo Ngang vào một buổi chiều tà:
“Bước qua Đèo Ngang, dáng bóng hoàng hôn,
Cỏ cây rợp đá, lá kề hoa”
Cụm từ “bóng hoàng hôn” gợi lên khoảnh khắc cuối ngày. Nhà thơ đứng một mình trước Đèo Ngang. Câu thơ “Cỏ cây rợp đá, lá kề hoa” là hình ảnh biểu tượng, miêu tả cảnh thiên nhiên tại Đèo Ngang. Việc sử dụng từ “kề” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” rất tinh tế. Khung cảnh thiên nhiên ở Đèo Ngang được nhà thơ mô tả chỉ với vài nét nhưng lại rất sinh động và chân thực.
Trong bức tranh thiên nhiên đó không thể thiếu hình ảnh con người. Nghệ thuật đảo ngữ “ví dụ - chợ mấy nhà” cho thấy hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Nhà thơ muốn nhấn mạnh sự nhỏ bé của con người trước sự rộng lớn của thiên nhiên. Con người chỉ là một chấm buồn lặng lẽ giữa một thiên nhiên bao la. Thiên nhiên mới là trung tâm trong bức tranh của Đèo Ngang.
Khi thiên nhiên càng trống vắng, tâm trạng của tác giả càng cô đơn. Điều đó được thể hiện trong những câu thơ sau:
“Nhớ nhà, xót xa, quê hương quê mình
Yêu nhà, mỏi miệng, gia đình gia đình”
Hình ảnh “quê hương quê mình” và “gia đình gia đình” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Sử dụng từ ngữ như “quốc quốc”, “đa đa” để thể hiện lòng nhớ nhung với quê hương, đất nước. Khi đọc những dòng này, ta như có thể nghe tiếng kêu nhỏ nhẹ, xúc động vang lên từ sâu thẳm.
Câu thơ “Dừng lại bước chân, trời, non, nước” mô tả hình ảnh nhà thơ một mình đứng trên Đèo Ngang, nhìn ra xa xăm chỉ thấy vẻ đẹp vô tận của thiên nhiên (bao gồm bầu trời, núi non, dòng sông). Sự cô đơn của nhà thơ được thể hiện qua “một mảnh tình riêng” - cảm xúc tư lự của nhà thơ không ai chia sẻ:
“Dừng lại bước chân, trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta'
Trong thơ của Nguyễn Khuyến cũng có sử dụng cụm từ “ta với ta”:
“Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta”
Trong tác phẩm “Bạn đến chơi nhà”, từ “ta” đầu tiên chỉ nhà thơ - chủ nhà, còn từ “ta” thứ hai chỉ người bạn - khách đến chơi. Từ “với” thể hiện mối quan hệ gắn bó, dường như không có khoảng cách. Điều này thể hiện sự gắn bó và tri âm tri kỷ của nhà thơ với bạn bè. Trái lại, trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan, cụm từ “ta với ta” chỉ nhà thơ một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. Sự cô đơn này dường như không thể chia sẻ cùng ai.
Do đó, Bà Huyện Thanh Quan đã thành công trong việc thể hiện tâm trạng của mình trước cảnh đẹp hoang sơ của Đèo Ngang. Bài thơ này mang đầy những tình cảm sâu sắc và ý nghĩa.
Bảng niêm luật trong bài thơ Qua đèo Ngang:
Bước | tới | đèo | Ngang | bóng | xế | tà |
T | T | B | B | T
| T | B |
Cỏ | cây | chen | đá | lá | chen | hoa |
T | B | B | T | T | B | B |
Lom | khom | dưới | núi | tiều | vài | chú |
B | B | T | T | B | B | T |
Lác | đác | bên | sông | chợ | mấy | nhà |
T | T | B | B | T | T | B |
Nhớ | nước | đau | lòng | con | quốc | quốc |
T | T | B | B | B | T | T |
Thương | nhà | mỏi | miệng | cái | gia | gia |
B | B | T | T | T | B | B |
Dừng | chân | đứng | lại | trời | non | nước |
B | B | T | T | B | B | T |
Một | mảnh | tình | riêng | ta | với | ta |
T | T | B | B | B | T | T |
Đặc điểm về hình thức và nội dung: Luật thanh điệu, niêm, nhịp, vần đều được chú trọng, mang tính nhạc lý cao. Thể thơ Đường luật có thể được sử dụng làm lời cho các thể hát, điệu hát. Nó tập trung vào âm nhạc, sự hòa phối giữa âm thanh và ý nghĩa. Nội dung của thể thơ này phản ánh cuộc sống xã hội, nhấn mạnh vào sự khốn khổ, gian khổ của người dân. Nó là nguồn động viên tinh thần và lên án quyền lực áp bức nhân dân.
Thể thơ Đường luật, đặc biệt là luật tuyệt, tuân theo những quy định nghiêm ngặt về niêm, luật, vần và cách bố cục. Mặc dù cô đọng và giàu ý nghĩa, nhưng cũng hạn chế trong việc thể hiện cảm xúc và tâm trạng theo thời cuộc. Bài viết này chỉ ra những đặc điểm quan trọng của thể thơ Đường luật thông qua một số bài thơ trung đại đã được nghiên cứu.
Báo cáo kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức thơ Đường Luật - Mẫu 2
Thể thơ Đường luật bắt nguồn từ Trung Quốc và đã phát triển mạnh mẽ tại quê hương của nó, lan rộng sang các vùng lân cận, trong đó có Việt Nam. Thơ Đường luật tuân theo một hệ thống quy tắc phức tạp, bao gồm năm điểm chính: Luật, niêm, vần, đối và bố cục. Trong các loại hình thức thơ Đường luật, thất ngôn bát cú được xem là một dạng tiêu biểu, là biểu tượng của thơ ca trung đại.
Thể thơ thất ngôn bát cú bao gồm tám câu, mỗi câu chứa bảy chữ. Luật thơ Đường luật bắt nguồn từ thời đại Đường (618-907) tại Trung Quốc. Tổng cộng một bài thơ thất ngôn bát cú có 56 chữ. Vần được gieo ở các chữ cuối cùng của các câu thứ nhất, hai, bốn, sáu, và tám, và vần này phải là như nhau. Ví dụ như trong bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, quy tắc này được thể hiện rõ ràng:
Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta
Các từ được ghép vần là: tà, hoa, nhà, gia, ta. Điều này giúp tạo ra sự liên tục trong bài thơ, làm giảm sự khô khan của một thể thơ đòi hỏi niêm luật chặt chẽ. Đối giữa câu thứ ba với câu thứ tư, câu thứ năm với câu thứ sáu (tức là bốn câu giữa) là sự tương phản, đồng thời cũng thể hiện sự cân bằng trong cách sử dụng từ, như trong bài thơ Qua Đèo Ngang:
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia
Các phép đối như “lom khom” so với “lác đác”, “dưới núi” so với “bên sông”, “nhớ nước” so với “thương nhà”... được thể hiện rõ ràng và chỉnh chu, cả về chữ lẫn âm. Ví dụ trong bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Các phép đối giữa các câu được cân đối và chỉnh chu như “Lặn lội” so với “eo sèo”, “quãng vắng” so với “buổi đò đông”... Trong thơ Đường, nếu câu 3 không đối với câu 4, câu 5 không đối với câu 6 thì được gọi là “thất đối”
Ngoài ra, thể thơ này còn tuân theo nguyên tắc bằng và trắc, đặc biệt là nguyên tắc niêm. Các câu niêm với nhau khi chữ thứ hai của hai câu theo cùng một nguyên tắc, hoặc cùng bằng, hoặc cùng trắc. Thường một bài thơ thất ngôn bát cú được niêm: câu 1 niêm với câu 8, câu 2 niêm với câu 3, câu 4 niêm với câu 5, câu 6 niêm với câu 7. Vần được sử dụng để tạo âm điệu trong thơ, thường được đặt ở cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Về cấu trúc, một bài thơ thất ngôn bát cú bao gồm 4 phần: Đề, thực, luận, kết. Trong suốt thời kỳ phong kiến, thể thơ này được sử dụng để thi tuyển nhân tài cho đất nước. Tuy có nguồn gốc từ Trung Quốc, thể thơ này cũng được Việt Nam tiếp nhận và sử dụng phổ biến, với nhiều bài thơ nổi tiếng thuộc thể loại này.
Khi Thơ mới xuất hiện, các tác giả đã sáng tạo để giảm bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của nguyên tắc bằng - trắc, để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ.