Dàn ý chi tiết
1.Đặt vấn đề
Trong thời kỳ Pháp thuộc, lịch sử vương quốc Champa đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới, được công bố trong sách và tạp chí.
2.Giải quyết vấn đề
+ Ban đầu, thông tin về Champa trong sử liệu Trung Quốc có thể được tìm thấy trong bộ sử Hán thư, Lương sử, Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Tống sử… Các nhà nghiên cứu thường dựa vào các nguồn sử liệu này để xây dựng lại lịch sử Lâm Ấp-Hoàn Vương-Chiêm Thành.
+ Các tài liệu lịch sử của Việt Nam liên quan đến Chiêm Thành thường được tìm thấy trong Đại Nam nhất thống chí, Đại Việt sử ký toàn thư và một số tài liệu khác từ các triều đại Việt Nam từ Lý-Trần đến triều Nguyễn.
3. Kết luận
+ Tóm lại, các nghiên cứu về lịch sử và văn hóa Champa được công bố trong sách, báo và tạp chí rất đa dạng và phong phú, thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đối với nhiều khía cạnh và lĩnh vực khác nhau.
Bài siêu ngắn Mẫu 1
Dân tộc Chăm, một trong những dân tộc thiểu số đa dạng và độc đáo tại Việt Nam, không chỉ có văn hóa đặc trưng mà còn đóng góp quan trọng vào sự đa dạng văn hóa của đất nước. Với lịch sử lâu dài và văn hóa phát triển độc lập, dân tộc Chăm là một phần không thể thiếu trong bức tranh văn hóa Việt Nam.
Dân tộc Chăm chủ yếu sinh sống tại các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên của Việt Nam, bao gồm Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắk Nông và các khu vực lân cận. Với ngôn ngữ, phong tục và trang phục truyền thống đặc trưng, dân tộc Chăm đã tạo ra một văn hóa độc đáo và phong phú. Ngôn ngữ Chăm được sử dụng hàng ngày và trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống và giao tiếp hàng ngày của người Chăm.
Văn hóa của dân tộc Chăm được thể hiện qua nhiều di sản văn hóa đặc biệt. Trong lĩnh vực kiến trúc, các đền tháp Po Nagar, Tháp Chăm Pô Klong Garai và Tháp Po Rome là những công trình kiến trúc nổi tiếng, thể hiện sự tài năng và nghệ thuật của người Chăm. Ngoài ra, người Chăm còn giữ và phát triển nghệ thuật thủ công truyền thống như đan lưới, dệt thổ cẩm và chế tác gốm sứ, tạo ra những sản phẩm độc đáo và tinh tế.
Công tác bảo tồn và gìn giữ di sản văn hóa của dân tộc Chăm đã nhận được sự quan tâm và hỗ trợ từ chính phủ và các tổ chức xã hội. Các hoạt động nghiên cứu, bảo tồn và phục hồi di sản văn hóa Chăm đã được triển khai, nhằm bảo vệ và phát triển những giá trị văn hóa này. Đồng thời, việc tổ chức các hoạt động giáo dục và đào tạo về văn hóa Chăm cũng rất quan trọng trong việc truyền đạt và phát huy di sản văn hóa của dân tộc Chăm.
Bài siêu ngắn Mẫu 2
Dân tộc Chăm là một trong 54 dân tộc anh em trên khắp Việt Nam. Người Chăm là một trong những cư dân sinh sống lâu đời trên đất nước. Về nguồn gốc tộc người, các nhà khoa học xếp người Chăm vào nhóm người Mongoloid phương Nam, nhóm loại hình Nam. Về ngôn ngữ, tiếng Chăm thuộc ngữ hệ Austronesian (Nam Đảo), đại chi Malayo – Polynesian (Mã lai – Đa đảo: M – P), chi Western Malayo – Polynesian, tiểu chi Sundic, nhóm Malayic, nhóm Achinese – Chamic, tiểu nhóm Chamic. Cùng với các dân tộc khác trong nhóm này, ở Việt Nam còn có các dân tộc Êđê, Giarai, Churu, Raglai,… Có những giả thiết cho rằng các tộc người này có thể là hậu duệ của cư dân đến từ Thế giới đảo hoặc từ phía Nam Trung Quốc. Các phát hiện mới đây trong lĩnh vực khảo cổ học đã gợi lên một giả thiết rằng, những người sáng lập nền văn hóa Sa Huỳnh có thể là tổ tiên của người Chăm và các dân tộc khác thuộc nhóm M – P ở Việt Nam ngày nay. Do đặc điểm cư trú và văn hóa địa phương, người Chăm hiện nay được chia thành ba nhóm cộng đồng: Chăm Hroi, Chăm Panduranga và Chăm Nam Bộ.
Bài tham khảo Mẫu 1
Trong thời kỳ Pháp thuộc, lịch sử vương quốc Champa đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trên thế giới, được công bố trong sách và tạp chí. Sau năm 1975, các tác giả Việt Nam không chỉ tìm kiếm và bổ sung tư liệu mà còn phát hiện ra những điều mới, điền vào những khoảng trống mà các nhà nghiên cứu tiên phong chưa thực hiện được. Các công trình sau này đã mở ra từng khía cạnh, lĩnh vực của cuộc sống, văn hóa, xã hội, lễ hội đến sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo.
Đầu tiên, là các ghi chú về Champa trong lịch sử Trung Quốc được tìm thấy trong bộ sử Hán thư, Lương sử, Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Tống sử… Các nhà nghiên cứu thường dựa vào những nguồn sử liệu này để tái hiện lại lịch sử Lâm Ấp-Hoàn Vương-Chiêm Thành. Các tư liệu về phong tục của người Chăm xưa trong sử liệu của Trung Quốc thường không có tính hệ thống, phân tán và thiếu chính xác. Tiếp theo là các nghiên cứu, khảo sát thực địa của người Pháp. Tư liệu cổ nhất của người Châu Âu viết về người Chăm có thể là của một người Ý tên là Marco Polo. Ông đã ghi chép chi tiết về người Chăm và cuộc sống của họ trong cuốn sách của mình. Vào thế kỷ XIV, một số linh mục truyền giáo đã đến Champa. Một trong số họ là Odoric de Pordenone, người đã ghi lại về phong tục, tập quán của người Chăm trong cuốn sách của mình.
Các tài liệu lịch sử của Việt Nam liên quan đến Chiêm Thành thường được tìm thấy trong Đại Nam nhất thống chí, Đại Việt sử ký toàn thư và một số tài liệu khác từ các triều đại Việt Nam từ Lý-Trần đến triều Nguyễn. Tuy nhiên, những tài liệu này thường tập trung vào các vấn đề như triều cống, xung đột, hòa hiếu. Mặc dù vậy, đó là các ghi chú quan trọng để so sánh với các ghi chép trên văn bia của Champa. Cuối cùng, các tác phẩm của các nhà nghiên cứu như Trần Quốc Vượng và Phan Thành Long đã phân tích các vấn đề về thể chế chính trị, văn hóa, xã hội của Champa và vai trò của họ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về lịch sử và văn minh Champa đã được xuất bản trong sách, báo và tạp chí, đa dạng và phong phú, thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học trong và ngoài nước đối với nhiều khía cạnh và lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào tập trung vào vấn đề giáo dục của người Chăm trong lịch sử một cách toàn diện và hệ thống. Ngay cả hình thức học tập và sinh hoạt nội trú của học sinh người Chăm cũng chưa nhận được sự chú ý đầy đủ từ các nhà nghiên cứu và quản lý giáo dục. Việc tổng kết các công trình nghiên cứu về người Chăm ở Việt Nam vẫn chưa thể hiện đầy đủ các tác giả và tác phẩm, chỉ phản ánh một phần của những hiểu biết về văn hóa Chăm.
Tài liệu tham khảo
1. Abd. Karim, Báo Thị Hoa (giới thiệu và trình bày). 2007. “Trường Pô Klong & Đặc sản Ước vọng”. Do International Office of Champa (IOC-Champa) xuất bản ở Paris – San Jose.
2. Đỗ Văn Tú. 1973. Vấn đề giáo dục sinh viên học sinh các sắc tộc. Sài Gòn: Bộ Phát triển Sắc tộc ấn hành.
3. Phan Văn Viện. 2007. Truyện kể dân gian các tộc người Nam Đảo ở Việt Nam. NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.
4. Phan Xuân Biên (chủ biên). 1989. Người Chăm ở Thuận Hải. Sở Văn hóa Thông tin Thuận Hải xuất bản.
Bài tham khảo Mẫu 2
Số lượng tác giả nghiên cứu về lịch sử văn hóa, xã hội, giáo dục của người Chăm rất đa dạng, từ trong nước đến nước ngoài, nhằm mang đến cái nhìn toàn diện và sâu sắc.
Trước hết, là các ghi chú về Champa trong lịch sử Trung Quốc được tìm thấy trong các tác phẩm như Hán thư, Lương sử, Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Tống sử… Các nhà nghiên cứu thường dựa vào những nguồn sử liệu này để tái hiện lịch sử Lâm Ấp-Hoàn Vương-Chiêm Thành. Tuy nhiên, tư liệu của Trung Quốc viết về phong tục tập quán của người Chăm thường không có tính hệ thống, phân tán và thiếu chính xác. Một số sử gia Trung Quốc thế kỷ XIII đã ghi lại một số thông tin không chính xác về người Chăm. Tuy nhiên, những ghi chú đó vẫn giúp nhà nghiên cứu hiểu biết căn bản về Champa và khẳng định sự xuất hiện của vương quốc này vào cuối thế kỷ thứ II.
Kế đến là các nghiên cứu, khảo sát thực địa của người Pháp. Tư liệu cổ nhất của người Châu Âu viết về người Chăm có thể là của Marco Polo. Ông đã ghi chép chi tiết về người Chăm và cuộc sống của họ trong cuốn sách của mình. Vào thế kỷ XIV, một số linh mục đi truyền giáo đã đến Champa và ghi chép lại phong tục, tập quán của người Chăm.
Từ thế kỷ XIX đến thế kỷ XX, nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa Chăm của người Pháp đã được công bố, tập trung vào các lĩnh vực như ngôn ngữ, văn bia, khảo cổ học, nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc đền tháp, lịch sử, bang giao, tín ngưỡng, tôn giáo. Mặc dù chủ yếu là văn hóa vật chất, nhưng những công trình này vẫn mang tính khoa học cao và giúp hiểu biết về người Chăm. Tiếc rằng, những nghiên cứu của người Pháp về đề tài lịch sử, văn hóa Chăm bị gián đoạn trong khoảng thời gian chiến tranh ở Việt Nam từ năm 1954 đến 1975.
Bài tham khảo Mẫu 3
Trước năm 1975, công trình Dân tộc Chàm lược sử (1965) của Dohamide và Dorohiem, do Hiệp hội Chàm Hồi giáo xuất bản tại Sài Gòn, là tác phẩm đầu tiên bằng tiếng Việt khái quát và hệ thống lịch sử dân tộc Chăm ở Việt Nam, tập trung vào các triều đại vương quốc Champa. Đặc biệt, tác phẩm này đã cho đăng lại nguyên văn biên niên sử các triều vua Panduranga được dịch từ văn bản Chăm Akhar thrah. Tác phẩm Bangsa Champa tìm về với một cội nguồn cách xa (2004) của một tác giả kể lại hiểu biết về người Chăm Islam ở miền Nam. Ngoài ra, hai tác phẩm này còn có nhiều bài viết khác về lễ hội, tôn giáo người Chăm miền Nam được đăng trên tạp chí Bách khoa.
Kế tiếp, Trung tâm Văn hóa Chàm Phan Rang được thành lập vào năm 1968, do G. Moussay điều hành và quản lý, quy tụ các nhân sĩ, trí thức Chăm như ông Lâm Gia Tịnh, Thiên Sanh Cảnh, Nại Thành Bô, Lưu Quý Tân, Đàng Năng Phương, Trượng Văn Tốn, Lưu Quang Sang, v.v… để sưu tầm văn bản chữ Chăm và công bố thành sách các tác phẩm văn chương và xuất bản Từ điển Chàm – Việt – Pháp. Cũng trong năm này, Thành Phú Bá, hiệu trưởng Trường Trung học An Phước (sau đổi tên thành Trường Trung học Pô Klong) ra mắt tác phẩm đặc sắc Ước vọng tập hợp nhiều bài viết văn, thơ của học sinh, cùng những bài diễn văn của chính thầy Hiệu trưởng, phản ánh hoạt động, phát triển của Nhà trường và những nghiên cứu của tri thức Chăm đương thời.
Năm 1972, Thiên Sanh Cảnh, lãnh đạo Hội đồng Phát triển Sắc tộc tỉnh Ninh Thuận, mời ông Đàng Cải, Nại Thành Viết, Nại Mú, v.v… sáng lập tạp chí Nội san Panrang, xuất bản 8 số (số 9 đang được biên tập) đến tháng 4 năm 1975. Tạp chí này đã đăng nhiều bài viết về văn học cổ điển Chăm, khoa học thường thức, đặc biệt là về văn hóa, lịch pháp, phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo và lễ hội người Chăm.
Những nghiên cứu của người Chăm trong giai đoạn này chưa có nhiều công trình đồ sộ, phân tích sâu sắc, đa phần là các bài viết tường thuật lại những hiện tượng văn hóa thông qua quan sát trực tiếp và điền dã.
Sau năm 1975, luận án phó tiến sĩ Hệ thống nhà cửa của người Chăm ở Việt Nam (1990) của Thành Phần được bảo vệ thành công ở Liên Xô, cùng với Danh mục thư tịch Chăm ở Việt Nam (2007) của cùng tác giả, giới thiệu về văn bản chữ Chăm.
Kế đến, nhiều tác giả người Chăm xuất hiện, như Inrasara (Phú Trạm) với các công trình nghiên cứu, sưu tầm và dịch thuật về văn học Chăm như Văn học Chăm I (1994), Văn học Chăm II (1996), Văn học dân gian Chăm tục ngữ và câu đố (1995), Từ điển Chăm – Việt (viết chung, 1995), Từ điển Việt – Chăm (viết chung, 1996), Các vấn đề văn hóa – xã hội Chăm (1999), Văn hóa – Xã hội Chăm, nghiên cứu và đối thoại (2003), Tự học tiếng Chăm (2003), Từ điển Chăm – Việt dùng trong nhà trường (viết chung, 2004), Trường ca Chăm – Ariya (2006).
Bố Xuân Hổ có công trình Truyền thuyết các tháp Chăm (1995), luận án phó tiến sĩ Gia đình và hôn nhân của người Chăm ở Việt Nam của Bá Trung Phụ (1996).
Năm 1999, tạp chí khoa học Champaka do Hassan Po Klaun, Po Dharma, Dương Tấn Thi sáng lập, chuyên nghiên cứu lịch sử và nền văn minh Champa đã công bố nhiều bài viết khoa học về lịch sử và văn hóa Champa. Hội Bảo tồn Văn hóa Champa ở Hoa Kỳ do Đặng Chánh Anh làm chủ tịch đã phát hành Đặc san Vijaya với nhiều bài nghiên cứu về lịch sử, văn hóa Champa.
Năm 2000, Inrasara, Trà Vigia, Trầm Ngọc Lan, Nguyễn Văn Tỷ sáng lập Tagalau – Tuyển tập sáng tác – sưu tầm – nghiên cứu Chăm cùng với Trung tâm Văn hóa Chăm Ninh Thuận cho ra đời Truyện cổ dân gian Chăm (2000).
Sakaya, tác giả trẻ, có nhiều công trình khảo cứu về văn hóa, lễ hội, tín ngưỡng, tôn giáo và nghề truyền thống của người Chăm như Nghề gốm cổ truyền của người Chăm (2001), Lễ hội người Chăm (2003), Luật tục người Chăm và Raglai (2003).
Năm 2005, Phú Văn Hẳn có công trình Đời sống văn hóa và xã hội người Chăm thành phố Hồ Chí Minh khái quát hoạt động đời sống, sinh hoạt tôn giáo và những thách thức của người Chăm ở thành phố Hồ Chí Minh.
Trong lĩnh vực du lịch, Đàng Năng Hòa bảo vệ luận văn cao học ở Philippines với đề tài Tác động của du lịch đối với di sản văn hóa của người Chăm tại Việt Nam.
Nguyễn Văn Tỷ có tác phẩm Giáo dục toàn diện vì sự phát triển xã hội (2005), Đời sống văn hóa và xã hội người Chăm Việt Nam (2010).