Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
- Nguyễn Khuyến có nhiều bài thơ viết về mùa thu. Chùm thơ thu nổi tiếng đã góp phần tôn vinh tên tuổi tác giả lên vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về quê hương làng cảnh Việt Nam.
- Trong chùm thơ đó thì bài Thu vịnh tiêu biểu nhất, in đậm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Khuyến.
2. Thân bài
+ Hai câu đề:
'Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.'
- Mở đầu là hình ảnh bầu trời mùa thu xanh ngắt và cao vời vợi. Xanh ngắt là xanh thăm thẳm một màu; mấy từng cao là tưởng như bầu trời có nhiều lớp, nhiều tầng.
- Nghệ thuật lấy điểm tả diện, lấy động tả tĩnh trong câu thứ hai thường thấy trong thơ cổ điển, được Nguyễn Khuyến vận dụng rất tự nhiên và phù hợp. Cần trúc thanh mảnh khẽ đong đưa trước ngọn gió hắt hiu (gió nhẹ) càng tôn thêm vẻ mênh mông của bầu trời mùa thu.
+ Hai câu thực:
'Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.'
- Nước biếc là màu đặc trưng của nước mùa thu (trong xanh). Lúc sáng sớm và chiều tối, mặt ao hồ thường có sương, trông như tầng khói phủ. Cảnh vật quen thuộc, bình dị trở nên huyền ảo.
- Hình ảnh Song thưa để mặc bóng trăng vào có sự tương phản giữa cái hữu hạn (song thưa) và cái vô hạn (bóng trăng), do vậy mà tứ thơ rộng mở, mênh mông ý nghĩa.
- Cảnh vật trong bốn câu thơ trên được nhà thơ miêu tả ở những thời điểm khác nhau trong ngày, nhưng mối dây liên hệ giữa chúng lại là sự nhất quán trong cảm xúc của tác giả.
+ Hai câu luận:
'Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào.'
- Tâm trạng hoài cổ chi phối cách nhìn, cách nghĩ của nhà thơ. Hoa năm nay mà nghĩ là hoa năm ngoái. Tiếng ngỗng trời kêu quen thuộc mỗi độ thu về khiến nhà thơ giật mình, băn khoăn tự hỏi ngỗng nước nào?
- Âm điệu câu thơ 4/1/2 như chứa chất bâng khuâng, suy tư. Nhà thơ quan sát cảnh vật với một nỗi niềm u uất.
+ Hai câu kết:
'Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.'
- Thi hứng dạt dào thôi thúc nhà thơ cầm bút, nhưng phần lý trí bừng thức khiến nhà thơ chợt thấy thẹn với ông Đào. (Tức Đào Tiềm, nhà thơ nổi tiếng đời Đường bên Trung Quốc).
- Nguyễn Khuyến thẹn về tài thơ thua kém hay thẹn vì không có được khí tiết cứng cỏi như ông Đào ? Nói vậy nhưng Nguyễn Khuyến vẫn sáng tác nên bài Thu vịnh để đời.
- Câu thơ cuối bỏ lửng khơi gợi suy ngẫm của người đọc.
3. Kết bài
- Thu vịnh là một bài thơ hay, góp phần khẳng định tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến
- Trình độ nghệ thuật của bài thơ đã đạt tới mức điêu luyện, khó ai sánh kịp.
Bài tóm tắt ngắn Mẫu 1
Nguyễn Khuyến - một nhà thơ nổi tiếng của làng cảnh Việt Nam, đã vẽ lên những bức tranh của cuộc sống nông thôn bằng nét bút tinh tế, tạo nên những hình ảnh về quê hương đẹp mắt và trữ tình. Chùm thơ thu của ông, bao gồm Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm, đã để lại ấn tượng sâu đậm và chạm vào lòng người với những hình ảnh mùa thu đặc trưng. Trong đó, bài thơ Thu vịnh thể hiện sự u hoài, xót xa trước cảnh mùa thu và tình cảm yêu nước chân thành.
“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”
Ở đây, khác hẳn với những trời thu trong “thu điếu” và “thu ẩm”, trời thu của thu vịnh được mở đầu là một khung cảnh cao vút và thăm thẳm của trời thu, và xen vào đó là cái se se lạnh của mùa thu. Với cái nền là bầu trời bao la “xanh ngắt”, “ mấy tầng cao” nổi bật lên hình ảnh thanh tú của cần trúc đang đong đưa khe khẽ trước gió thu. Và hình ảnh động của gió hắt hiu như chứa chất tâm trạng bên trong. Mở đầu như vậy khiến cho người đọc có thể phần nào thấy được một nỗi lòng đầy lo âu. Sự lay động rất nhẹ của cần trúc càng làm tăng thêm cái lặng thinh, sâu thẳm của bầu trời. Hai câu đề chấm phá hai nét phong cảnh đơn sợ, thanh thoát nhưng hoà điệu nhịp nhàng với tâm hồn tác giả. Nhà thơ đã vẽ lên một khung cảnh trời thu vừa có cảnh thực là vừa có hồn thu ở trong cảnh.
“Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào.”
Nước biếc là màu nước đặc trưng của mùa thu khi khí trời bắt đầu se lạnh. Sáng sớm và chiều tối, trên mặt ao, mặt hồ có một lớp sương mỏng trông như khói phủ làm cho người đọc có cảm giác cảnh mùa thu được chen lẫn với màu khói. Và chính cái cảnh mặt nước khói sương bình thường ấy qua con mắt và tâm hồn thi sĩ đã trở thành một dáng thu ngâm vịnh. Tầng khói phủ khác làn khói phụ vì sương đã trở nên dày hơn, nhiều lớp hơn, có chiều cao, độ sâu, như chất chứa cái gì đó ở bên trong. Chỉ bằng vài nét chấm phá nho nhỏ của mùa thu đã khiến cho mùa thu như có hồn và sự hòa quyện giữa cảnh thu và lòng người đi vào trong lòng người đọc. Nếu ở câu trên là một trạng thái có chiều cao, có độ sâu thì ở câu này lại là một trạng thái mở ra thành một bề rộng.
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không, ngỗng nước nào?”
Nếu như cảnh vật ở 4 câu thơ trên được miêu tả qua con mắt nhìn có vẻ khách quan, đầy cảm xúc của trái tim. Nghệ thuật đảo ngữ làm nổi bật hình ảnh 'mấy chùm” hoa và “một tiếng” ngỗng. Hình ảnh “hoa năm ngoái” có sức gợi tả mạnh; “hoa năm ngoái” có nghĩa là hoa vẫn là hoa y như năm ngoái mà nước hôm nay thì đã trở thành 'nước nào”. Và tiếng ngỗng ở đây, về nghệ thuật, là lấy cái động để diễn tả cái tĩnh. Cảm giác khi nghe tiếng ngỗng trên không văng vẳng mà giật mình băn khoăn tự hỏi: ngỗng nước nào? Mặc dù âm thanh ấy đã quá quen thuộc mỗi độ thu về. Và nếu như 4 câu thơ trên sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người có sự kết hợp hài hòa thì đến 2 câu thơ này, là một nỗi u uất của lòng người trước cảnh vật thiên nhiên, là nỗi niềm xót xa, nẫu ruột, chết lòng.
Và rồi đến 2 câu thơ kết của của bài thơ là cảm hứng và nỗi thẹn của nhà thơ
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”
“Nhân hứng” ở đây chính là hứng làm thơ trước cảnh mùa thu, “toan cất bút” định không viết nhưng trước cảnh đẹp thì lại tạo được hứng khởi để viết. “Nghĩ ra' tức là ý thức, là lý trí, là tỉnh. Nguyễn Khuyến rất say mà rất tỉnh. Ông say trước cảnh đẹp của mùa thu, nhưng ông vẫn tỉnh trước lương tâm của mình. Cho nên, ông nói được là thẹn. Nhưng thẹn với ai? Có lẽ thẹn vì tài thơ thua kém hay thẹn vì mình chưa có được nhân cách trong sáng và khí phách cứng cỏi như Đào Tiềm? Với hướng văn đi từ cảnh đến tình, từ tình đến người và rồi là cái kết có chút lẳng lơ nhưng mà lại vô cùng kín đáo ẩn chứa rất nhiều suy tư của người đọc.
Thu vịnh của Nguyễn Khuyến không chỉ khắc họa bức tranh mùa thu thôn dã đẹp bình dị, mộc mạc mà gần gũi, qua đó còn thể hiện cái tâm của người thi sĩ yêu làng quê
Mẫu siêu ngắn số 2
Nguyễn Khuyến sáng tạo nhiều bài thơ về mùa thu bằng chữ Hán và chữ Nôm. Trong số đó, Thu vịnh là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng: Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Tác phẩm này đã đưa Nguyễn Khuyến lên vị trí hàng đầu trong số các nhà thơ sáng tác về mùa thu ở quê hương, làng cảnh Việt Nam.
Bắt đầu bài thơ là hình ảnh bầu trời rộng lớn, mênh mông:
“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”
Xanh ngắt là màu sắc sâu thẳm, mấy từng cao là rất cao, như có nhiều lớp, nhiều tầng. Trên bầu trời mênh mông là hình ảnh thanh tú của cành trúc (cây trúc non dáng cong cong như cây cần câu) đang uốn éo nhẹ nhàng trước gió thu. Gió hắt hiu là gió nhẹ nhàng, nhưng chứa đựng nhiều tâm trạng bên trong. Tất cả tạo nên một mối liên kết tinh tế, sâu sắc và khó nắm bắt... Sự lay động nhẹ nhàng của cành trúc càng làm tăng thêm sự lặng lẽ, sâu thẳm của bầu trời. Bầu trời dường như dồn hết sự sâu lắng vào trong cành trúc, để cho nó vừa uốn éo mà cũng vừa yên bình. Đó là sự động và sự yên bình của cảnh thu.
Hai câu đầu tạo ra hai nét phong cảnh đơn giản nhưng hoà quện nhịp nhàng với tâm hồn của nhà thơ. Mọi chi tiết, màu sắc, đường nét, cử động đều hài hoà. Nguyễn Khuyến chỉ nói về trời thu nhưng đã thấy được hồn thu trong đó.
“Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.”
Nước biếc là màu của mùa thu khi trời bắt đầu se lạnh. Sáng sớm và chiều tối, trên mặt ao, mặt hồ có một lớp sương mỏng trông như khói phủ. Cảnh mặt nước sương mờ đó qua con mắt và tâm hồn của nhà thơ đã trở thành một hình ảnh thu dịu dàng. Mỗi cảnh một vẻ đẹp khác nhau, nhưng mối liên kết giữa chúng lại chính là sự nhất quán trong tâm trạng của tác giả. Ngòi bút diễn biến theo tâm trạng và chọn ra một số đặc điểm nổi bật. Tâm trạng chủ đạo ấy chi phối cách nhìn và cách suy nghĩ của Nguyễn Khuyến:
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không, ngỗng nước nào?”
Sau khi nhìn thấy mặt nước phủ sương, ánh trăng qua lá cây, nhà thơ nhìn ra bờ giậu trong sân, nơi một số chùm hoa đã nở. Điều kỳ lạ là bất thình lình, nhà thơ cảm thấy như đó là hoa của năm ngoái. Trong trường hợp này, mọi thứ đã được miêu tả thông qua mắt nhìn có phần chủ quan, đến mức tình cảm của trái tim cũng thể hiện trên cảnh vật. Hoa nở trước mắt dường như mới và tuyệt vời mà lại cảm thấy chúng như hoa của năm ngoái. Con người đang sống trong hiện tại nhưng như lùi về quá khứ hoặc bóng dáng của quá khứ hiện ra trong hiện tại?
Mùa thu đến, nhà thơ nhìn thấy hoa trước sân, nghe tiếng chim hót trên bầu trời vang xuống và tỉnh giấc cảm thấy một nỗi xót xa, lặng lẽ mà như nát lòng. Sâu sắc của tâm hồn thi sĩ lắng đọng vào sâu sắc của câu thơ. Trước cảnh thu và tâm hồn thu, khiến tinh thần thi sĩ tràn đầy cảm xúc, nhà thơ muốn viết thơ nhưng sau cùng lại cảm thấy thẹn với ông Đào:
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”
Nhà thơ cảm thấy thẹn là vì điều gì? Thẹn vì tài thơ kém cỏi, hay là thẹn vì chưa có được đức tính trong sáng và vẻ ngoài kiên cường như Đào Tiềm? Cấu trúc của bài thơ đi từ cảnh vật đến tâm trạng, từ tâm trạng đến người. Câu kết của bài thơ có phần lỏng lẻo và kín đáo, từ đó làm tăng sự suy tư của toàn bộ bài thơ. Nguyễn Khuyến miêu tả cảnh thu ở quê hương của mình, từ bầu trời, cành trúc, mặt nước, ánh trăng đến chùm hoa trước giậu, tiếng chim trên cao... để dẫn đến cảm xúc sâu sắc ẩn chứa trong cảnh vật. Thông qua đó, ông truyền đạt tình yêu và tiếc nuối về quê hương, đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến, thể hiện qua tình yêu sâu sắc với thiên nhiên. Mức độ nghệ thuật của bài thơ đã đạt đến mức điêu luyện, tinh tế, không phải ai cũng có thể sánh kịp.
Mẫu siêu ngắn số 3
Bài thơ Thu vịnh của Nguyễn Khuyến, còn được biết đến với tên gọi Vịnh mùa thu, đã thu hút sự yêu thích của đông đảo bạn đọc. Đây là một trong ba bài thơ thuộc chùm Thu vịnh, cùng với thu điếu và thu ẩm, tạo nên một bức tranh mùa thu phong phú qua lời văn. Bức tranh này tả mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ với những hình ảnh đặc trưng của nó. Hãy cùng khám phá bài thơ Thu vịnh để hiểu thêm về những điều tuyệt vời và đặc biệt nhất nhé!
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cành trúc uốn éo, gió hắt hiu.
Nước biếc như tầng khói phủ,
Mặt ao mờ nhưng vẫn chìm bóng trăng.
Mấy chùm hoa trước giậu năm ngoái,
Một tiếng trên cao, ngỗng nước bay đi đâu?
Nhân hứng cũng muốn viết bút nghiên,
Nhưng lại ngần ngại trước tác giả Đào Tiềm.”
Bài thơ Thu vịnh được nhận xét là tuyệt nhất trong ba bài thơ về mùa thu của Nguyễn Khuyến. Bởi nó không chỉ mang đậm bản sắc của mùa thu mà còn chứa đựng sự u uất, nỗi buồn của thi sĩ. Mùa thu ở Bắc Bộ được tác giả tả qua bầu trời cao xanh. Đó là mùa thu của trời đất và cũng là mùa thu của tâm trí thi sĩ trước khung cảnh đó. Không gian mở ra rộng lớn với các tầng cao, cùng với hình ảnh uốn éo của cành trúc. Điều này tạo ra một không gian tuyệt đẹp, đồng thời mang lại sự mềm mại, cao quý nhờ vào hình ảnh cành trúc.
'Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cành trúc uốn éo, gió hắt hiu.
Nước biếc như tầng khói phủ,
Mặt ao mờ nhưng vẫn chìm bóng trăng.'
Bức tranh trở nên sinh động và tinh tế hơn với màu nước biếc, mà còn là màu của mùa thu trong xanh. Việc sử dụng từ 'hắt hiu' đã làm nổi bật sự rung động của cành trúc, đồng thời là tâm hồn và cảm xúc của thi sĩ trước cảnh đẹp này. Trăng, như một người bạn tri kỷ, đã làm cho bức tranh mùa thu sáng sủa hơn. Các cảnh vật trong đó cũng trở nên huyền ảo và mơ mộng hơn.
Ở đây, chúng ta cảm nhận được hình ảnh thơ của Nguyễn Khuyến rất sâu sắc. “Hoa năm ngoái” biểu hiện sự đọng lại và cũng là nỗi buồn không thay đổi của thi sĩ. Nó cũng mang một nỗi buồn nhẹ nhàng. Sự lạ lẫm bỗng nhiên hiện ra trong “ngỗng nước nào”. Bức tranh đó đã động chạm vào tâm hồn của nhà thơ, khiến ông rưng rức. Đêm thu với khung cảnh tuyệt vời ấy đã làm cho nhà thơ trầm ngâm và cũng chính là nỗi u uất của thi sĩ. Trước khung cảnh ấy, nhà thơ đã bộc lộ tâm trạng của mình.
“Mấy chùm hoa trước giậu năm ngoái,
Một tiếng trên cao, ngỗng nước bay đi đâu?
Nhân hứng cũng muốn viết bút nghiên,
Nhưng lại ngần ngại trước tác giả Đào Tiềm.”
Đó chính là tính cách lớn của một nhà thơ vĩ đại. Ở đây có hình ảnh của ông Đào, tức là Đào Tiềm – một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc. Và nếu nói về lý do tại sao Nguyễn Khuyến lại cảm thấy ngần ngại trước ông Đào, thì khó có thể giải thích. Bởi vì về mặt học vấn, Nguyễn Khuyến chính là học giả uyên bác, không hề thua kém. Tuy nhiên, có lẽ ông ngần ngại trước Đào Tiềm vì tư duy. Tư duy của Đào Tiềm phản ánh sự nổi tiếng của ông với tư cách quan rõ ràng trong xã hội Trung Quốc thời kỳ đó. Trong khi đó, với Nguyễn Khuyến, ông vẫn là kẻ bất bại với những năm tháng đầy mưa gió. Và câu thơ này thực sự thể hiện lòng chân thành và cũng là nỗi u uất của một nhân cách lớn.”
Bài tham khảo Mẫu 2
Nguyễn Khuyến được biết đến với tư cách là 'Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam' với một kho tàng văn học phong phú. Trong chuỗi thơ về mùa thu, ba bài: 'Thu điếu', 'Thu ẩm', 'Thu vịnh' đã giúp vinh danh tên tuổi của ông, đặt ông vào vị trí hàng đầu trong số các nhà thơ viết về quê hương Việt Nam. Trong số đó, 'Thu vịnh' là một minh chứng rõ ràng nhất, là biểu tượng của phong cách nghệ thuật của ông.
Bài thơ mở đầu với hình ảnh của bầu trời trong xanh cùng với những cành trúc nhỏ nhắn lay động trong gió:
'Trời thu xanh ngắt mấy từng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu'
Trời thu được tô điểm bằng một màu xanh thăm thẳm 'xanh ngắt' giống như trong bài 'Thu ẩm' có viết: 'Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?'. Nó trong trẻo và cao vời vợi, tạo ra cảm giác của sự nhiều lớp, nhiều tầng đang được xếp chồng lên nhau 'mấy từng cao'. Trong cái bầu trời xanh ấy, tác giả đã vẽ lên một vài cành trúc thanh mảnh, mềm mại nhẹ nhàng lay động trong gió (cây trúc non cong vút như chiếc cần câu nên mới gọi là 'cần trúc'). Ở đây, bút pháp sử dụng động tả tĩnh rất phù hợp, từ từ 'lơ phơ' gợi lên sự thưa thớt của lá trúc lay động bởi những làn gió nhẹ nhàng hiu hắt, tôn thêm vẻ cô đơn, lưu luyến, mênh mông, khiến ta nhớ đến câu thơ 'Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo'.
'Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào'
Màu xanh biếc là màu của làn nước mùa thu khi không khí bắt đầu se se lạnh và nó cho thấy sự trong veo như một tấm gương khổng lồ phản chiếu bầu trời sâu thẳm. Sáng sớm, trên mặt ao, mặt hồ thường có một lớp sương mỏng nhẹ và lớp sương ấy ngày càng dày thêm, nó không còn phảng phất nữa mà là dày đặc như tầng khói phủ, giống như làn sương trong thơ của Hàn Mặc Tử 'Ở đây sương khói mờ nhân ảnh'. Màu xanh biếc kèm theo lớp sương khói phủ khiến màu nước không còn trong veo nữa mà trở thành mông lung, kì ảo như đang lạc ở chốn bồng lai tiên cảnh. Trong đêm lạnh lẽo, u tịch, bỗng vầng trăng xuất hiện, thi sĩ để 'song thưa' mặc bóng trăng ùa vào tràn ngập phòng thơ, từ đó cho thấy tâm hồn của tác giả đầy rộng mở, phóng khoáng, lãng mạn. Giữa thời điểm canh khuya đầy những nỗi cô đơn thì trăng chính là người bạn tri âm tri kỷ của thi nhân, có ánh trăng, bức họa đồ càng thêm sáng, thêm huyền ảo. Và còn gì tuyệt vời hơn khi còn có cả sự góp mặt của những nhành hoa và tiếng chim:
'Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?'
Đang say sưa thưởng nguyệt, ngắm nhìn khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp thì đột nhiên nhà thơ nhìn ra bờ giậu ngoài sân, ở đó nở mấy chùm hoa thu, nhưng điều kỳ lạ là ông cảm thấy đây là hoa năm ngoái. Có lẽ là do nỗi u hoài, âu sầu trong lòng đã làm ông có cảm giác năm tháng dường như ngưng đọng lại trên những nhành hoa (nhìn hoa nở năm nay mà cứ ngỡ là hoa năm ngoái) khiến nó nhạt nhòa, màu úa tàn của thời gian. Từ đó, hình ảnh này gợi cho ta liên tưởng đến câu thơ 'Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ' trong bài 'Thu hứng' của Đỗ Phủ. Nếu như cảnh vật được miêu tả qua cái nhìn khách quan của thi nhân thì cảm xúc trái tim đã khoác lên nó một màu sắc chủ quan và chính cảm xúc này đã khiến ông nghe tiếng ngỗng lạc đàn từ trên trời cao văng vẳng xuống mà giật mình tự hỏi: 'Ngỗng nước nào?'. Câu hỏi tu từ 'Một tiếng trên không ngỗng nước nào?' cho thấy nỗi đau đáu khôn nguôi, băn khoăn trăn trở của ông trước cảnh mất nước.
Hai câu kết đã nói lên nỗi lòng thầm kín của tác giả:
'Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào'
Cảnh thu vừa đẹp, vừa thơ mộng trữ tình đã khơi dậy cái thi hứng tràn đầy, nồng đượm, dạt dào trong tâm hồn ông. Nguyễn Khuyến rất say mê trước cảnh đẹp của mùa thu nhưng vẫn tỉnh trước lương tâm của chính mình. Vậy ông 'thẹn với ông Đào' là vì cái gì? Có lẽ là vì tài văn chương thua kém hay là vì bản thân còn thiếu cái nhân cách trong sáng, khí phách cứng cỏi của ông Đào, người đã từ quan một cách dứt khoát, trở thành một nhân vật nổi tiếng về khí tiết trong giới quan trường Trung Hoa? Đã từ quan về ở ẩn rồi mà nhà thơ vẫn còn vướng phải vòng danh lợi chốn quan trường, dính líu đến bọn quan lại; chưa nguôi nghĩ về vận nước, nỗi lo lắng ưu phiền luôn đầy ắp trong lòng 'thân nhàn nhưng tâm không nhàn'. Có lẽ nên hiểu theo nghĩa thứ hai bởi Nguyễn Khuyến chưa từng thẹn về tài thơ với bất cứ ai nhưng lại luôn ngưỡng mộ Đào Tiềm, con người 'không thể vì năm đấu gạo mà khom lưng uốn gối, khúm núm hầu hạ kẻ tiểu nhân', đã lập tức từ quan trở về vui với ba luống cúc. Nỗi u sầu nhuốm màu sắc thời thế này làm cho bức tranh cảnh trời thu quê hương Việt Nam thêm gợi cảm, làm xao xuyến, say đắm lòng người.
Tóm lại, nhờ việc vận dụng tài tình thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật cùng với chữ Nôm và những nghệ thuật: So sánh, nhân hóa, câu hỏi tu từ, từ láy.. hay bút pháp chấm phá, lấy động tả tĩnh, tác giả đã để lại cho độc giả ấn tượng sâu sắc về cảnh thu làng quê Việt Nam vừa đẹp, vừa trữ tình nhưng ẩn sâu trong đó là nỗi buồn xót xa, ưu tư về vận mệnh dân tộc và tình yêu tha thiết, sâu nặng với thiên nhiên, đất nước.
Tham khảo Mẫu 3
Nguyễn Khuyến, một nhà thơ xuất sắc của làng cảnh Việt Nam, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả. Các bài thơ của ông tạo ra hình ảnh tĩnh lặng của thiên nhiên làng quê Bắc Bộ. Trong đó, cảnh mùa thu được miêu tả với sự tinh tế, yêu mến và trân trọng. Nguyễn Khuyến được nhà thơ Xuân Diệu đánh giá: “Nổi tiếng nhất về thơ nôm, ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh”.
Ba bài thơ mùa thu của Nguyễn Khuyến là hiện thân của cảnh thu với các hoạt động như làm thơ, câu cá và uống rượu. Mỗi bài thơ mang một góc nhìn nghệ thuật riêng, một cảm xúc khác nhau về mùa thu. Xuân Diệu nhận xét: “Bài Thu vịnh chứa hồn của cảnh vật mùa thu nhất, thanh nhẹ, trong lành và cao vút. Nó thể hiện tinh thần của mùa thu”.
Nguyễn Khuyến tạo dựng cảnh vật mùa thu với bầu trời: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”. Màu sắc của trời thu được diễn đạt qua từ “xanh ngắt” thể hiện vẻ đẹp cao rộng của không gian. Cảnh sắc này phản ánh tâm hồn cao thượng của Nguyễn Khuyến, một nho sĩ giữa xã hội đảo điên, trân trọng thiên nhiên và nhân cách.
Tác giả sử dụng cách tiếp cận đơn giản, trực tiếp nhưng tạo ra ấn tượng sâu sắc. Với bản tính tự nhiên, hồn hậu, Nguyễn Khuyến miêu tả cảnh mùa thu Việt Nam:
“Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”
Câu thơ này tạo ra hình ảnh trúc uốn cong dưới làn gió nhẹ nhàng của mùa thu. Mặc dù bầu trời và khóm trúc có khoảng cách xa nhau, nhưng chúng kết hợp tạo thành một phối cảnh tinh tế.
Cảnh mùa thu tiếp tục được tác giả miêu tả từ xa đến gần, từ bầu trời đến mặt nước ao, từ ao đến cửa sổ:
“Nước biếc trông như từng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào.”
Cảnh này tạo ra cảm giác hư ảo, nhưng lại thực tế. Nước ao mùa thu ít biến động, bóng trăng nằm trên mặt nước như khói. Điều này tạo ra không khí mê hoặc và thực tế của mùa thu.
Tác giả kết hợp nhiều cảnh thu từ nhiều thời điểm để tạo ra bức tranh mùa thu trong bài Thu vịnh. Câu hỏi cuối cùng “Một tiếng trên không ngỗng nước nào?” tạo ra cảm giác bất an giữa không gian yên bình của đêm. Sự bất biến của thiên nhiên so với sự thay đổi của thời gian làm cho Nguyễn Khuyến cảm thấy u hoài. Câu hỏi này phản ánh nỗi u sầu của tác giả.
Nguyễn Khuyến, mặc dù đã ở ẩn ở quê nhà, nhưng vẫn không thể tránh khỏi suy nghĩ về tình cảnh đất nước. Nỗi u sầu này được tác giả thể hiện qua từng hình ảnh thơ. Tình trạng này được phản ánh qua hai câu cuối:
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”
Tác giả cảm thấy thẹn với nhân cách thanh cao của Đào Tiềm, một nho sĩ giữa thời đại rối loạn. Nguyễn Khuyến không thể sánh bằng với Đào Tiềm về nhân cách và khí tiết, điều này làm tác giả cảm thấy day dứt suốt đời.