Bài mẫu 1
Hai câu đầu trong bài thơ “Cảnh khuya” đã tài tình vẽ nên cảnh núi rừng Việt Bắc. Tác giả đã dùng sự so sánh giữa tiếng suối chảy êm dịu trong đêm với “tiếng hát xa” của con người. Kỹ thuật so sánh này đã làm cho cảnh rừng khuya trở nên gần gũi, thân thiện với con người. Câu thứ hai đã tạo ra hình ảnh vầng trăng sáng rực, điệp ngữ 'lồng' được lặp lại ba lần, tạo nên một bức tranh đẹp và huyền ảo. Cảnh rừng Việt Bắc trở nên sống động, tươi sáng và là niềm vui sống của con người. Hai câu thơ này thể hiện tâm hồn cao đẹp của nhà thơ, của nghệ sĩ, yêu thiên nhiên và hòa hợp với nó. Chỉ như vậy, sẽ có tâm hồn thanh cao đang sống những phút giây thần tiên ở chiến khu Việt Bắc.
Bài mẫu 2
Trong bài thơ 'Cảnh khuya', hai câu đầu miêu tả cảnh đêm ở núi rừng Việt Bắc. Khi trăng lên, đêm trở nên sáng sủa hơn. Ánh trăng lan tỏa khắp mặt đất, tạo nên không gian bao la. Đêm vắng, tiếng suối trở nên rõ ràng hơn. Tiếng suối chảy êm đềm, vang vọng từ xa. Điều này cho ta cảm giác như thể mình đang nghe tiếng hát dịu dàng của suối trong đêm khuya. Đây là một cách tinh tế để miêu tả vẻ đẹp của dòng suối trong đêm. Tiếng suối và tiếng hát tạo nên một bức tranh sống động về núi rừng trong thời chiến tranh.
Suối trong như tiếng hát xa Mỗi câu thơ, mỗi khung cảnh, âm thanh của suối chảy được cảm nhận một cách tinh tế. Sau tiếng suối, ta nghe tiếng hát xa xa và trăng chiến khu. Trăng sáng và đẹp tựa như một viên ngọc trên bầu trời. Trên cao là trăng, phía giữa là cây thụ, phía dưới là hoa rừng. Cả núi rừng Việt Bắc rực sáng dưới ánh trăng. Ánh trăng len lỏi xuyên qua những kẽ lá, tán cây, tạo nên một cảm giác êm đềm, như là một phần của thiên nhiên. Ánh trăng như là một vòng xoáy, một lồng hoa xinh đẹp. Và trên mặt đất, những đóa hoa rừng ngậm sương đêm, xen lẫn với bóng cây thụ. Đêm thanh, trên bầu trời, trăng trị vị độc tôn. Đêm vắng, trăng sáng làm cho mặt đất, cây cỏ như đang ngừng thở, để chờ đón ánh sáng trăng mát lạnh, dịu dàng.
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.