Những đứa trẻ đang thưởng thức kem và bim bim trước cổng trường, và đó là lúc 7 giờ sáng, trước giờ vào học của chúng.
Khi nói đến các bảng xếp hạng trên thế giới, từ kinh tế đến quân sự, chúng ta thường tưởng tượng ra một cuộc đua giữa các quốc gia để giành vị trí dẫn đầu.
Tuy nhiên, có một bảng xếp hạng đặc biệt mà không ai muốn đứng đầu. Càng cao trên bảng xếp hạng này, áp lực càng lớn, cả về mặt sức khỏe lẫn tinh thần.
Chúng ta đang nói về bảng xếp hạng về tỷ lệ dân số béo phì, nơi mà Việt Nam đang có mặt ở vị trí cuối cùng, thậm chí còn thấp hơn nhiều quốc gia kém phát triển khác.
Với tỷ lệ béo phì chỉ 2,11%, Việt Nam đang dẫn đầu bảng xếp hạng này, vượt qua cả Lào, Campuchia và nhiều quốc gia châu Phi khác.
Điều này làm nhiều người nước ngoài tự hỏi: Bí quyết của người Việt là gì khi họ sống trong một quốc gia nổi tiếng với đồ ăn như bún, phở và bánh mì, thực phẩm có nhiều tinh bột có thể dẫn đến tăng cân?
Vào Ngày Thế giới Phòng chống Béo phì năm nay (4/3), Tổ chức Y tế Thế giới đã công bố một báo cáo đáng chú ý trên tạp chí y khoa The Lancet. Theo đó, số lượng người béo phì trên toàn cầu đã lần đầu tiên vượt qua con số 1 tỷ.
Số liệu này đáng báo động, khi đã tăng gấp gần 5 lần so với năm 1990, tức là từ thời kỳ mà thế hệ 9x bắt đầu trưởng thành.
Trong những năm đó, tỷ lệ béo phì trên thế giới chỉ ở mức trung bình 4,3% trên tổng số 5,3 tỷ dân. Điều này có nghĩa là chỉ có khoảng 226 triệu người béo phì vào năm 1990.
Ba thập kỷ đã trôi qua, và thế hệ 9x đang đóng góp một phần lớn vào đại dịch béo phì toàn cầu. Tỷ lệ béo phì trung bình đã tăng lên đến 12,5%.
Điều đó có nghĩa là cứ 8 người bạn gặp, ngẫu nhiên, thì sẽ có một người béo phì.
Nhưng điều này không chỉ diễn ra ở nơi nào khác, mà còn ở nước Việt Nam. Đại dịch béo phì dường như đã quên mất đất nước đẹp này suốt hàng thập kỷ qua. Để tìm thấy Việt Nam trên các bảng xếp hạng béo phì thế giới, bạn phải nhìn từ dưới lên.
Trong nhiều năm, Việt Nam luôn đứng cuối cùng trên mọi bảng xếp hạng béo phì thế giới. Tỷ lệ béo phì dân số ở Việt Nam hiện chỉ là 2,1%. Điều này có nghĩa là bạn phải gặp trung bình 50 người Việt mới có thể tìm thấy một người béo phì quá mức.
Ở Việt Nam, người ta thường nói rằng đất nước này sinh ra những anh hùng vĩ đại, không phải là những người béo phì.
Trái ngược với điều đó, một số quốc gia dẫn đầu về tình trạng béo phì. Ví dụ, Tonga, một quốc đảo ở Thái Bình Dương, có tỉ lệ béo phì lên đến 81%. Các quốc đảo khác như American Samoa (81%), Samoa (75%), Tokelau (75%), Tuvalu (73%) và Cook Islands (73%) cũng gặp phải tình trạng tương tự.
Mỹ hiện đang là quốc gia có số người béo phì nhất thế giới, với 77 triệu người, theo dữ liệu cho đến thời điểm này. Trung Quốc xếp thứ hai với 66,5 triệu người béo phì và Ấn Độ đứng thứ ba với 47 triệu người.
So với các nước khác, Việt Nam chỉ có hơn 2 triệu người béo phì.
Đối với người Việt, việc gầy gò dường như là điều tự nhiên. Tuy nhiên, với nhiều du khách nước ngoài, điều này lại là điều khó hiểu. Trên các diễn đàn như Reddit và Quora, không khó để bắt gặp các câu hỏi liên quan đến sự gầy gò của người Việt.
'Tôi nhận thấy ở Việt Nam, rất ít người béo phì. So với các nước khác trong khu vực, hầu hết người Việt đều có thân hình mảnh mai.
Tôi tự hỏi tại sao lại như vậy, vì tôi thấy họ ăn nhiều thức ăn có carbohydrate như cơm, mì, bánh mì. Họ cũng uống cà phê và bia nhiều.
Ở các thành thị Việt Nam, không có ai phải đi bộ nhiều. Mọi người đều di chuyển bằng xe máy. Vậy bí quyết duy trì cân nặng của họ là gì?', tài khoản Hanlk viết trên trang r/VietNam trên Reddit vào tháng 2.
Đề tài này nhận được gần 200 thảo luận, trong đó nhiều giải thích liên quan đến văn hóa, lối sống và di truyền của người Việt.
'Người Châu Á (đặc biệt là người Việt) có tỷ lệ béo phì thấp, ngay cả khi ở Mỹ. Có lẽ một phần do di truyền', một người dùng Reddit chia sẻ.
Tài khoản này trích dẫn một nghiên cứu trên tạp chí y khoa BMC chỉ ra rằng người Mỹ gốc Á có tỷ lệ béo phì thấp hơn nhiều so với người Mỹ trắng (11% so với 35%), mặc dù ở trong cùng điều kiện sống và ăn uống.
Thậm chí, tỷ lệ béo phì ở người Mỹ gốc Việt còn thấp hơn nhiều so với nhóm gốc Á khác.
Việc du khách quốc tế nhìn thấy người Việt gầy có thể được giải thích bằng giả thuyết 'Nghịch lý Yajnik-Yudkin', được nêu trong một nghiên cứu năm 2004 bởi hai bác sĩ Chittaranjan S Yajnik (gốc Á) và John S Yudkin (gốc Âu).
Hai bác sĩ này đã tìm thấy rằng, với cùng chỉ số BMI, người gốc Á có tỷ lệ mỡ thừa cao hơn, nhưng trông vẻ ngoài lại mảnh mai hơn người gốc Âu.
Yajnik và Yudkin giải thích rằng gen di truyền khiến người gốc Á không tích tụ mỡ dưới da như người gốc Âu. Vì vậy, dù họ ăn nhiều carbohydrate, mỡ của họ thường ẩn bên trong nội tạng thay vì ở bên ngoài cơ thể như bắp tay hoặc đùi.
Mỡ nội tạng nguy hiểm hơn mỡ dưới da, nhưng về mặt thẩm mỹ, nó có thể làm cho người Châu Á, bao gồm người Việt trông mảnh mai hơn. Khi béo, họ thường chỉ béo ở bụng và có thể che điều này bằng cách chọn quần áo phù hợp.
Có thể gen chơi vai trò lớn hơn so với việc người Việt ít vận động. Mặc dù họ ít đi bộ hơn so với trung bình thế giới, nhưng vẫn giữ được vóc dáng. Khảo sát của Đại học Stanford năm 2017 cho thấy mỗi người Việt chỉ đi bộ 3.600 bước mỗi ngày, ít hơn so với trung bình thế giới là 5.000 bước.
Vỉa hè thường bị chiếm dụng để đỗ xe máy, bán hàng hoặc thậm chí cả xe máy cũng đi trên vỉa hè. Đi bộ trong đô thị không thoải mái do ô nhiễm và thời tiết nóng ẩm ở Việt Nam được coi là khá khắc nghiệt.
Nếu muốn tìm Việt Nam trên bảng xếp hạng vận động của Đại học Stanford, người ta phải xem ở nhóm cuối. Người Việt đứng cuối trong việc vận động và thể dục, ít nhất là khi tính số bước đi bộ mỗi ngày.
Vì vậy, việc ít bị béo phì của người Việt không thể giải thích bằng việc tính số bước đi bộ mỗi ngày. Nhưng việc này cũng có thể giải thích tại sao họ ít bị béo phì.
Joseph Farrington, một YouTuber nổi tiếng người Anh làm việc trong lĩnh vực thể hình và dinh dưỡng đã đến Việt Nam để tìm câu trả lời cho thắc mắc của mình. Anh chia sẻ trong một video có tựa đề 'Tôi đã tới thăm đất nước có tỷ lệ béo phì thấp nhất thế giới':
'Việt Nam chỉ có tỷ lệ béo phì là 2,1%. Điều này khiến tôi rất tò mò muốn biết tại sao con số lại thấp đến vậy?'. Video này được thực hiện vào mùa hè năm 2022 và hiện đã nhận được hơn 4,3 triệu lượt xem, giải thích một lý do đơn giản khiến người Việt gầy từ góc nhìn thực phẩm và dinh dưỡng.
Sau khi đến Hà Nội, thực tế mà Joe gặp phải khiến anh ấy vô cùng ngạc nhiên là sự thiếu vắng của các cửa hàng đồ ăn nhanh kiểu Phương Tây trên mỗi vỉa hè ở Việt Nam.
'Khi ở Mỹ, mọi con phố tôi đi qua đều đầy những cửa hàng đồ ăn nhanh của mọi loại. Nhưng tôi không thể nói đó là thực tế ở Việt Nam. Chẳng hạn, ở Mỹ có tới 13.673 cửa hàng McDonald's. Ở Việt Nam con số chỉ là 17'.
Văn hóa đồ ăn nhanh của Phương Tây, nguyên nhân chính gây ra tình trạng béo phì của họ, khi du nhập vào Việt Nam đã gặp phải một rào cản, đó là sự phổ biến của ẩm thực vỉa hè.
Dạo qua phố phường Hà Nội, thứ mà Joe thấy ở mọi nơi là các cửa hàng bán rau và hoa quả tươi. Anh ấy mua dừa từ một quán nước giải khát, dứa từ một xe hàng rong và ăn bánh xèo, thứ mà Joe gọi là 'bánh taco kỳ lạ' cuộn cùng với salad (rau sống) trong giấy trắng (bánh tráng).
Tất cả đều là những loại thực phẩm ít calo hơn so với đồ ăn nhanh tại Mỹ. Hơn nữa, chúng còn rẻ hơn và được phục vụ nhanh hơn cả các loại đồ ăn nhanh như pizza, hamburger, khoai tây chiên – những thứ mà người Việt phải vào các nhà hàng tương đối sang trọng và rồi ngồi chờ đợi.
Expat Nam, một YouTuber khác đã sống hơn 5 năm ở Việt Nam đồng ý với Joe về điều đó: 'Theo tôi, lý do mà người Việt thon gọn hơn hầu hết phần còn lại của thế giới liên quan đến đồ ăn và thực phẩm của họ'.
'Vào các khu chợ ở Việt Nam và bạn sẽ thấy chỉ toàn là hàng rau củ, quả tươi, các loại thực phẩm ít calo. Họ cũng ăn thịt, nhưng tỉ lệ thịt trong các món ăn ở Việt Nam khá thấp. Bên cạnh đó là chế độ ăn cá, những loại cá nạc và chứa nhiều axit béo omega 3. Đây là một chế độ ăn hết sức lành mạnh'.
Một nghiên cứu trên tạp chí y học BMJ cũng xác nhận điều đó. 'Chế độ ăn truyền thống của người Việt được coi là lành mạnh. Giống như chế độ ăn của nhiều nước châu Á, chế độ ăn của người Việt chứa ít chất béo, ít thịt, cá, nhiều rau, có sự khác biệt theo vùng và mức tiêu thụ rau cao hơn ở các vùng phía Bắc.
Đặc điểm lành mạnh này của chế độ ăn uống truyền thống của người Việt đã được xác nhận bởi dữ liệu từ khảo sát quốc gia năm 2015'.
Cũng theo một thống kê năm 2015 của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Rau Châu Á, Việt Nam là một nước tiêu thụ rau xanh hàng đầu thế giới. Mỗi năm, một người Việt ăn trung bình 142kg rau xanh.
Trẻ em ở đây được dạy ăn rau từ nhỏ, đôi khi là bị ép buộc. Trần Minh Ngọc, một người dùng Quora hài hước chia sẻ: 'Những ông bố bà mẹ Việt thường nói với con cái mình trong bữa ăn: 'Thích ăn rau hay là ăn tát?'.
Và khi nói đến những bữa cơm gia đình truyền thống, Expat Nam cho biết văn hóa ăn uống của người Việt rõ ràng cũng góp phần vào tỷ lệ béo phì thấp của họ. 'Ở Việt Nam bạn thực sự không có văn hóa đồ ăn nhanh. Mọi người sẽ dành thời gian cho việc ăn uống', anh nói.
Các bữa ăn chính của người Việt là bữa trưa và bữa tối, nơi họ thực sự dành rất nhiều thời gian để tự nấu. Sẽ có khoảng 5-6 món ăn được bày ra đĩa nhỏ mỗi bữa, có thể là 10-15 món trong dịp đặc biệt. Nhưng người Việt sẽ ăn những miếng rất nhỏ. Họ dùng đũa gắp từng miếng và mỗi món chỉ ăn khoảng 1 thìa.
'Nó gần giống như phong cách tapas nếu bạn đã từng đến Tây Ban Nha', Expat Nam nói. 'Ở Việt Nam bạn sẽ không có những đĩa thức ăn khổng lồ như ở Phương Tây, những đĩa khoai tây chiên, thịt nướng hay nhiều món ăn nhanh phải nói là tôi cũng rất thích'.
Ngoài ra, việc ăn ít cũng đi kèm với ăn chậm. 'Người Việt ăn chậm hơn phần lớn các quốc gia khác trên thế giới. Khi bạn dành ra một khoảng thời gian dài hơn để ăn, cơ thể bạn sẽ biết khi nào bạn đã no. Sẽ có những tín hiệu hormone từ dạ dày đến não nói với bạn khi nào nên dừng lại'.
Các nghiên cứu dinh dưỡng cũng ủng hộ văn hóa ăn chậm rãi của người Việt. Nghiên cứu trên tạp chí Hiệp hội Dinh dưỡng Hoa Kỳ cho biết những người ăn nhanh hơn sẽ tự đưa mình vào nguy cơ béo phì cao hơn 115%. Một nghiên cứu trên tạp chí Dịch tễ học cho thấy những người ăn quá nhanh có thể bị béo phì từ tuổi 20.
Ngược lại, ăn chậm được chứng minh là có thể giúp tăng hormone cảm giác no, giảm lượng calo ăn vào và cuối cùng giúp giảm cân.
Một thử nghiệm trên tạp chí Dinh dưỡng và Chế độ ăn Hoa Kỳ cho thấy chỉ cần nhai chậm hơn bình thường, một người có thể giảm tới 15% lượng calo ăn vào. Dựa trên một thực tế rằng, các tín hiệu hormone gây no cần 20 phút để chạy từ dạ dày lên não bộ của bạn. Trong 20 phút đó, bạn có thể ăn nhiều hơn những gì mà cơ thể bạn cần.
Yếu tố thú vị cuối cùng có thể giải thích cho chuyện người Việt gầy, đó là việc họ không ngại khi nói đến chuyện béo. Câu đầu tiên mà ai đó có thể nói với bạn sau một khoảng thời gian lâu ngày không gặp đó là 'Ê, dạo này béo thế'.
'Người Việt không có gì ngần ngại khi nói về việc béo. Nếu bạn béo, họ sẽ trực tiếp nói với bạn và trước mặt mọi người rằng bạn béo. Và điều đó thường được thảo luận trong các cuộc trò chuyện hàng ngày', một người dùng trả lời câu hỏi trên Quora: 'Tại sao Việt Nam có tỷ lệ béo phì thấp nhất thế giới?'.
Đối với người Việt Nam, việc gọi ai đó là béo không nhất thiết là một sự chế giễu hay chỉ trích. Họ xem đó là việc nói ra một sự thật, và phần lớn mọi người đều thoải mái với điều đó. Những người bị gọi là béo thường sẽ về nhà, nhìn vào gương và bắt đầu tập thể dục hoặc kiêng ăn để giảm cân.
Ngược lại, đối với trẻ em ở Việt Nam, việc ai đó nói một đứa trẻ 'béo bự', có nghĩa là béo, đôi khi được coi là một lời khen, đặc biệt là từ những người lớn tuổi. Khen một đứa trẻ 'béo' cũng đồng nghĩa với việc nói rằng đứa trẻ đó 'trông khỏe mạnh'.
Điều này có thể được giải thích từ lịch sử của họ, trong phần lớn thời gian, Việt Nam đã phải đối mặt với nạn đói và suy dinh dưỡng nhiều hơn là béo phì. Các cuộc chiến tranh với người Pháp và người Mỹ trong thế kỷ 20 đã làm kiệt quệ nền kinh tế của chúng ta.
Ngay cả khi đã chiến thắng và thống nhất được đất nước vào năm 1975, Việt Nam vẫn thuộc nhóm các quốc gia nghèo nhất thế giới, người dân thậm chí còn phải đối mặt với nạn đói. GDP bình quân đầu người của Việt Nam vào năm 1976 chỉ là 94 USD. Và ít ai biết rằng đất nước xuất khẩu gạo hàng thứ ba thế giới ngày nay, trước đây đã phải nhập khẩu gạo đến năm 1986.
Hậu quả là cho tới năm 1990, khi thế hệ 9x tại Việt Nam được sinh ra, một cuộc điều tra dân số tổng quát cho thấy hơn một nửa trẻ em (56,5%) ở thời điểm đó bị suy dinh dưỡng và thấp còi. Béo phì cho đến năm 1995 vẫn là một điều rất xa lạ.
Vì vậy, đối với thế hệ 9x ở Việt Nam, chỉ cần một chút đầy đặn hơn thường ngày là đã được coi là béo. 'Béo' với những đứa trẻ ấy có nghĩa là một sự khen ngợi, sự khích lệ. Nhưng hiện nay, mọi thứ đều đang thay đổi, với tốc độ nhanh chóng.
Vào năm 1999, thế hệ cuối cùng của thế hệ 9x tại Việt Nam đã chào đời, đánh dấu một bước ngoặt trong sự thay đổi thế hệ. Khác biệt với thế hệ GenZ tiếp sau Millennials trên toàn cầu, những đứa trẻ sinh vào năm 2000 ở Việt Nam được gọi đơn giản là thế hệ 2k.
Thời điểm ra đời của thế hệ này cũng đồng thời là lúc Chương trình Lương thực Thế giới (WFP), tổ chức nhân đạo lớn nhất dưới sự quản lý của Liên Hợp Quốc, quyết định dừng toàn bộ viện trợ của họ cho Việt Nam.
Viện trợ trị giá gần 500 triệu USD này là thứ mà, trong suốt 25 năm từ năm 1975, Việt Nam đã phụ thuộc vào để thúc đẩy cuộc chiến chống đói giảm nghèo. Một phần, việc này đã góp phần đẩy GDP bình quân đầu người của Việt Nam từ 94 USD vào năm 1976 lên 395 USD vào năm 2000.
Nhờ các chương trình cải cách, chuyển đổi kinh tế sang hướng mở cửa và hội nhập toàn cầu, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam đã liên tục vượt qua con số 8% trong nhiều năm.
Trong cùng thời gian, Việt Nam đã đi từ việc nhập khẩu gạo để trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới. Các chuyên gia tại Liên Hợp Quốc đã công nhận rằng Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc chương trình WFP của họ. Viện trợ không còn cần thiết nữa.
'Việt Nam đã có khả năng tự cung cấp lương thực cho người dân của mình', Julian Lefevre, giám đốc chương trình WFP tại Việt Nam chia sẻ vào ngày 31/12/2000, khi văn phòng của họ tại Hà Nội đóng cửa chính thức.
'Vấn đề an ninh lương thực quốc gia ở Việt Nam hiện đã được đảm bảo. Do đó, chúng tôi tại WFP có thể tự tin kết thúc chương trình viện trợ tại đây và dành nguồn lương thực đó cho các quốc gia khác có nhu cầu cấp bách hơn'.
Kinh tế phát triển, an ninh lương thực đảm bảo và chính sách hoá gia đình đã giảm tỷ lệ sinh ở Việt Nam từ 3,6 xuống 1,9 trong vòng 10 năm. Điều này có nghĩa là mỗi gia đình thế hệ 9x thường có từ 3-4 anh chị em. Nhưng đến thế hệ 2k, trung bình mỗi gia đình chỉ còn 2 con.
Những đứa trẻ này được chăm sóc tốt hơn, có nguồn dinh dưỡng tốt hơn và phát triển cao lớn hơn. Một nguồn dinh dưỡng quan trọng trong quá trình này là sữa.
Nghiên cứu trên Tạp chí An ninh Lương thực cho biết từ 1990 đến 2000, lượng sữa tiêu thụ ở Việt Nam tăng gấp hơn 3 lần. Đến năm 2010, con số này tăng gấp 10 lần. Thế hệ 9x bây giờ cũng phải ấn tượng với tốc độ tiêu thụ sữa của con em họ.
Xét từ năm 1985 đến 2010, lượng sữa tiêu thụ ở Việt Nam tăng gấp 30 lần (từ 0,8 lên 29,5 g/người/ngày), thịt tăng gấp 8 lần (từ 11 lên 84 g/người/ngày), chất béo tăng 5 lần (từ 1,6 lên 8 g/người/ngày) và cá tăng gấp đôi (từ 35 lên 60 g/người/ngày).
Tất cả những con số này giúp giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và thấp còi ở trẻ em Việt Nam đáng kể, từ 56,5% năm 1990 xuống còn 36% vào năm 2000. Hơn 2 thập kỷ sau, con số này giảm xuống chỉ còn 19,6%.
Tuy nhiên, một quốc gia thoát gầy cũng đồng nghĩa với việc họ đang phải đối mặt với nguy cơ béo phì tăng lên.
Kinh nghiệm từ các chuyên gia Liên Hợp Quốc cho thấy, khi tỷ lệ suy dinh dưỡng giảm, tỷ lệ thừa cân và béo phì tăng lên - mặc dù vẫn còn tỷ lệ suy dinh dưỡng cao.
'Khi thế giới chuyển từ vấn đề suy dinh dưỡng sang vấn đề thừa cân, béo phì và bệnh chuyển hóa, chúng ta đang thực sự đổi mới một thách thức bằng một thách thức khác', Phó Giáo sư, Tiến sĩ Chris Damman, chuyên gia về nội khoa và tiêu hóa tại Đại học Washington nói.
Và đó là tình hình mà Việt Nam đang phải đối mặt.
Một khảo sát của Fitch Solutions Macro Research năm 2019 cho thấy Việt Nam hiện đang là quốc gia có tốc độ gia tăng béo phì nhanh nhất khu vực Đông Nam Á và Đông Á.
Trong 5 năm từ 2010-2014, tỷ lệ béo phì ở Việt Nam đã tăng 38%, so với 27% của Thái Lan và chỉ 6% của Philippines. Việt Nam, mặc dù đang ở vị trí thấp nhất trong bảng xếp hạng, nhưng lại đang có nguy cơ bứt phá mạnh mẽ nhất về béo phì.
'Thông điệp cảnh báo là tỷ lệ béo phì ở trẻ em đi học đã tăng từ 8,5% lên 19% chỉ trong 10 năm (2010-2020), đặc biệt ở khu vực thành thị cao gấp đôi so với nông thôn', bác sĩ Đặng Trúc Lan Trinh, Phó khoa Nội tiết - Thận, Bệnh viện Nhân dân Gia Định, nói tại một hội nghị khoa học thường niên năm 2023.
Cùng năm đó, một khảo sát của Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho thấy hơn một nửa (45-55%) trẻ em lớp 5 ở các trường tiểu học nội thành Hà Nội thừa cân và béo phì. Con số ở các trường ngoại thành là từ 20-30%.
Giải thích nguyên nhân của xu hướng này, Phó giáo sư, Tiến sĩ Bùi Thị Nhung, Trưởng khoa Dinh dưỡng học đường và ngành nghề, Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho biết có thể là do các bậc cha mẹ thế hệ 9x giấu giếm.
Do họ đã trưởng thành trong thời kỳ suy dinh dưỡng và được cha mẹ cố gắng nuôi béo, nên bây giờ, chính họ cũng mong muốn con cái của mình phát triển mạnh mẽ. Những đứa trẻ hiện nay thường được cho ăn một chế độ ăn không cân đối, dẫn đến tình trạng béo phì mà đa số các bậc cha mẹ thế hệ 9x không nhận thức được vấn đề này một cách rõ ràng.
'Chúng tôi đã thăm hỏi hơn 600 bà mẹ ở Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng, một phần có con gặp vấn đề dinh dưỡng bình thường thì nghĩ rằng con mình thiếu dinh dưỡng. Chỉ có 20% bà mẹ có con bị béo phì nhận ra con mình gặp tình trạng này, phần còn lại chỉ nghĩ là con thừa cân', Phó giáo sư Nhung cho biết.
Hậu quả của điều đó là gì?
Một nghiên cứu trên tạp chí Inquiry dự báo đến năm 2030, Việt Nam sẽ có 2 triệu trẻ em trong độ tuổi 5-19 bị béo phì, con số bằng tổng dân số béo phì ở Việt Nam hiện tại. 'Trẻ thừa cân hoặc béo phì có thể duy trì tình trạng này đến khi trưởng thành, tăng đáng kể nguy cơ mắc các bệnh không lây nhiễm (NCD)', các nhà nghiên cứu viết.
Các bệnh không lây nhiễm (NCD) bao gồm bệnh tim mạch, tiểu đường, đột quỵ, trầm cảm, ung thư... Trong đó, các nhà khoa học ước tính có khoảng 13 loại ung thư trực tiếp liên quan đến béo phì như ung thư vú, tử cung, buồng trứng, gan, mật, tụy, tuyến giáp và bệnh đa u tủy.
Về ung thư, Việt Nam hiện đứng ở vị trí 91/185 trên thế giới về tỷ lệ mắc mới. Mỗi năm, khoảng 183.000 người Việt được chẩn đoán mắc ung thư và 123.000 người chết vì ung thư.
Tỷ lệ tử vong do ung thư tại Việt Nam là 73,5%, cao hơn nhiều so với mức trung bình thế giới là 59,7%. Trên bảng xếp hạng tử vong do ung thư, Việt Nam đứng ở vị trí 50/185.
Với dữ liệu hiện tại, dễ dàng dự đoán rằng Việt Nam sẽ tiếp tục leo lên vị trí cao hơn trên các bảng xếp hạng bệnh tật. Và quốc gia từng nổi tiếng vì suy dinh dưỡng sẽ sớm vượt lên khỏi đáy của bảng xếp hạng béo phì.
Tuy nhiên, việc lội ngược dòng này rõ ràng không phải là điều mà ai cũng mong muốn. Thứ hạng càng cao trên bảng xếp hạng béo phì càng tạo thêm gánh nặng về mặt y tế cho một quốc gia như Việt Nam, vốn đang trong giai đoạn phát triển, đồng thời vẫn phải đối mặt với tỷ lệ suy dinh dưỡng ở mức 19,6%.
Đây là một thách thức kép đối với Chiến lược Dinh dưỡng Quốc gia 2021 - 2030, một tình hình phức tạp mà các nhà làm chính sách phải xem xét.
Tổng kết