Văn mẫu lớp 11: Viết văn bản nghị luận về Tầm quan trọng của việc minh oan qua truyện thơ Quan Âm Thị Kính mang đến bài văn mẫu cực hay, giúp cho các em học sinh tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng viết văn nghị luận ngày một hay hơn.
Nghị luận về tầm quan trọng của việc minh oan qua truyện thơ Quan Âm Thị Kính siêu hay dưới đây sẽ giúp các bạn lớp 11 có thêm nhiều nguồn tư liệu tham khảo và có sự chuẩn bị tốt hơn khi viết văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm nghệ thuật hoặc tác phẩm văn học.
Tầm quan trọng của việc minh oan qua truyện thơ Quan Âm Thị Kính
Trong những tác phẩm chèo cổ, thì vở “Quan âm Thị Kính” có sức sống khá lớn trong lòng người xem, bởi những nhân vật trong tác phẩm có tính cách vô cùng độc đáo. Trong đó, nhân vật Thị Kính khiến cho người xem cảm thấy xót xa, ám ảnh bởi những nỗi oan quá lớn mà người phụ nữ này phải gánh chịu trong cuộc sống của mình.
Văn bản kể về sự oan ức của Tiểu Kính Tâm khi cô là người phụ nữ yêu chồng, hiếu thuận với gia đình chồng nhưng lại bị nghi oan là có âm mưu giết hại chồng, khiến cô đau đớn như muốn chết đi.
Thị Kính là người phúc hậu, đoan trang. Cô hết sức chăm sóc cho gia đình chồng, một lòng chung thủy trước sau như một làm tròn bổn phận của người vợ, người dâu hiền trong gia đình quán xuyến công việc.
Nhưng rồi một hôm khi chồng đang ngủ say, Thị Kinh thì ngồi thêu thùa đan áo cho chồng, nàng ngồi ngắm khuôn mặt chồng mình và giật mình có một sợi râu mọc ngược trông không mấy thẩm mỹ.
Quan âm Thị Kính kể về việc Thị Kính bị đổ oan giết chồng, rồi bị nhục mạ, xúc phạm và đuổi về nhà mẹ đẻ trong nỗi đớn đau tủi nhục, có oan khuất mà kêu trời trời không thấu, kêu đất đất không nghe. Trước hết nói về nhân vật Thị Kính, nhân vật chính của tác phẩm, trước hết chưa nói đến ngoại hình thế nhưng ta đã thấy hiện lên Thị Kính là một người phụ nữ tỉ mỉ, săn sóc và hết mực yêu thương chồng con. Sự tỉ mỉ ta có thể thấy ở việc nàng cẩn thận ngắm dung nhan chồng, rồi chợt phát hiện ra một sợi râu nhỏ mọc ngược, lòng săn sóc, yêu thương chồng là ở cách Thị Kính suy nghĩ cầm quạt quạt cho chồng an giấc, lại cẩn thận suy nghĩ đến thể diện của chồng với chiếc râu mọc ngược (vốn cái gì ngược ngạo cũng dễ cản trở cuộc sống). Và đặc biệt tình yêu thương ấy được thể hiện rất rõ nét trong câu hát của nàng rằng 'Dạ thương chồng lòng thiếp sao an'.
Tuy nhiên tình yêu, sự một lòng ấy của nàng lại trở thành tai vạ, đôi lúc thiết nghĩ Thị Kính vì quá thương chồng thành ra nghĩ chẳng chu toàn, lại mất đi cái cẩn thận. Phải chăng nàng đợi chồng dậy rồi nói về chiếc râu, rồi với cắt thì có lẽ tình cảm vợ chồng lại càng trở nên khăng khít chứ chẳng đến nỗi. u cũng phải nói rằng sự chịu đựng, hy sinh âm thầm của người phụ nữ xưa đôi lúc đã trở thành cái cớ khiến họ khổ sở cả một đời. Đến khi bị vu tội giết chồng, thì Thị Kính lại tỏ rõ là một người phụ nữ yếu đuối, tội nghiệp, nàng cũng từng nhiều lần mở miệng thanh minh với cha mẹ chồng và với chồng, thế nhưng đáng thương cho kiếp đàn bà, lại còn là kiếp nghèo khó thế nên người ta cứ mặc nhiên là nàng âm mưu giết chồng vì trót có lang chạ với ai.
Như vậy, từ đoạn này chúng ta đã nhận thấy qua lời buộc tội của Sùng bà, Thị Kính phải gánh trên vai hai gánh nặng của oan khuất: giết chồng và bị oan bất trung, lén lút yêu đương với người khác. Đối với phụ nữ thời xưa, chịu hai tội này là đánh mất thanh danh, phải chịu sỉ nhục và mất hết cuộc sống. Cao trào của phần Nỗi oan hại chồng là khi Sùng ông gọi Mãng ông đến, tuyên trách và đuổi Thị Kính về nhà mẹ. Lúc này, Thị Kính đối diện với một tương lai đau buồn, bị ruồng bỏ bởi gia đình chồng với hai oan khuất nặng nề, khiến nàng đau khổ vô cùng.
Bên cạnh những kỷ niệm hạnh phúc của tình vợ chồng là những khoảnh khắc tan vỡ, chia lìa. Lời thoại tả rõ hình ảnh một cô gái bị oan uất đau đớn và cô đơn trước cuộc sống không biết đi về đâu. Cuộc đời của phụ nữ trong xã hội phong kiến là như thế nào khi phải đối mặt với sự không chắc chắn?
Trong đau đớn của cuộc sống vợ chồng tan vỡ, sự nhục nhã khi danh dự bị hủy hoại, sự tủi nhục khi không thể bảo vệ được cha mẹ già bị sỉ nhục, Thị Kính vẫn giữ tính cách chân thật, hiền lành, tuân thủ luân lý đạo đức. Đọc giả càng thấu hiểu và thương xót, càng căm hận sự bất công của gia đình Sùng bà.
Đoạn kết về Nỗi oan hại chồng là khi Thị Kính cúi lạy cha và nói rằng nàng sẽ giả trai để trở thành một phật tử. Con đường giải thoát của Thị Kính có hai phương diện: tích cực và tiêu cực. Phương diện tích cực là khi Thị Kính quyết định sống tiếp và chứng minh mình là người trung thực. Phương diện tiêu cực là khi nàng cho rằng số phận đã quyết định, vì vậy nàng chọn tu hành để tránh xa cuộc đời. Thái độ của Thị Kính không phản kháng lại sự bất công, không đủ can đảm vượt qua khó khăn, thậm chí nàng chấp nhận sự bất công một cách nhẫn nại và đáng thương. Phản ứng của Thị Kính chỉ dừng lại ở việc than thở về số phận và mong ước cho cuộc sống của mình được sáng sủa.
Vở chèo Quan Âm Thị Kính và đoạn Nỗi oan hại chồng là một minh chứng rõ ràng cho sân khấu chèo truyền thống, thể hiện chân thực cuộc sống bi thảm và tình trạng bế tắc của nhiều số phận, đồng thời tôn vinh phẩm chất cao quý của phụ nữ nghèo trong xã hội phong kiến.