
Vịt bầu là giống vịt nội địa nổi tiếng ở Việt Nam, thường được nuôi ở các vùng nông thôn. Giống vịt này phổ biến ở miền Bắc và miền Nam, cũng như tại các tỉnh duyên hải miền Trung. Tại miền Nam, vịt Bầu còn được gọi là vịt Sen (Sen cò, Sen Ô). Trong số các địa phương nổi tiếng, vịt Bầu Bến (Hòa Bình) và vịt Bầu Quỳ (Nghệ An) là những loại đặc trưng nhất. Vịt Bầu Bến xuất phát từ vùng Chợ Bến, Hòa Bình, trong khi vịt Bầu Quỳ có nguồn gốc từ huyện Quỳ Châu, Nghệ An.
Các đặc điểm nổi bật
Chi tiết mô tả
Vịt bầu có kích thước trung bình; khi trưởng thành, con đực nặng từ 2,2 đến 2,5 kg, trong khi con mái nặng từ 2,0 đến 2,2 kg. Vịt bầu có trọng lượng trung bình khoảng 2,0-2,5 kg, với tuổi trưởng thành từ 6 tháng trở lên. Trứng của vịt bầu nặng từ 50 đến 60 g. Thân hình vịt bầu chắc chắn, hình chữ nhật, đầu lớn, thân dài, cổ ngắn, ngực rộng, bụng sâu, di chuyển nặng nề. Mỏ và chân của vịt có nhiều màu sắc khác nhau, phổ biến nhất là màu vàng, với con trống có mỏ màu xanh lá cây.
Con trống có lông cổ màu xanh lục, và một số còn có vòng lông trắng quanh cổ. Màu lông của vịt Bầu rất đa dạng, từ trắng, xám đen đến nâu xám, do không được chọn lọc kỹ lưỡng qua nhiều thế hệ. Bộ lông của vịt Bầu có nhiều sắc thái khác nhau, thường gặp là màu cà cuống, tiếp theo là màu xám và loang đen trắng. Dù khả năng cho thịt không cao, vịt Bầu có khả năng tự kiếm mồi tốt và thích nghi tốt với các điều kiện chăn thả truyền thống.
Thói quen
Cổ của vịt bầu ngắn và trông có vẻ lừ đừ, nhưng chúng chạy rất nhanh, thích hoạt động và khéo léo trong việc lẩn trốn. Vịt bầu có khả năng tìm kiếm thức ăn ở khe suối và đồng ruộng rất tốt. Vịt bầu ở vùng Phủ Quỳ có sức đề kháng cao với bệnh, có thể thích nghi với nhiều điều kiện thời tiết khác nhau như nóng, lạnh, khô, ẩm, và gió Lào. Thịt vịt bầu thơm ngon, vị ngọt nhờ được nuôi theo hình thức thả rông. Chế độ ăn chủ yếu là cá, tép từ khe suối, thỉnh thoảng mới được bổ sung ít vỏ trấu, sắn, thóc. Khí hậu đặc trưng với mùa đông lạnh và mùa hè mát mẻ giúp vịt bầu phát triển tốt.
Vịt Bầu chủ yếu được nuôi ở các vùng đồng bằng trồng lúa ở cả miền Bắc và miền Nam. Chúng không chỉ được nuôi lấy thịt mà còn để lấy trứng, tuy nhiên sản lượng trứng thấp hơn so với vịt Cỏ, chỉ đạt từ 100 đến 130 quả/mái/năm, mỗi quả trứng nặng từ 70 đến 80 gam. Để sản xuất 10 quả trứng, cần tiêu tốn khoảng 2,5 đến 2,6 kg thức ăn. Tỷ lệ trứng có phôi khoảng 75 đến 80%. Vịt Bầu có khả năng cho thịt tương đối tốt, với tỷ lệ thịt so với khối lượng sống đạt từ 50 đến 52%. Đến 63 ngày tuổi, vịt trống đạt từ 1,5 đến 1,8 kg, vịt mái đạt từ 1,3 đến 1,5 kg, và khi trưởng thành, con trống nặng từ 2,5 đến 3,0 kg, còn con mái nặng từ 2,2 đến 2,5 kg.
Sinh sản
Trứng vịt cần khoảng 28 ngày để nở. Trong khoảng thời gian từ lúc mới nở đến 1 tháng tuổi, vịt con bước vào giai đoạn 'gột vịt'. Thời gian gột có thể ngắn hay dài tùy thuộc vào giống vịt, mùa vụ, và điều kiện chăm sóc. Khi mới nở, vịt con thường được để nhịn đói 4 giờ trước khi cho ăn. Nếu vịt chưa khô lông, có thể để lâu hơn vì trong bụng vịt vẫn còn một lượng lòng đỏ cung cấp dinh dưỡng. Nếu cho ăn ngay, lòng đỏ không tiêu hóa hết có thể gây chết trong tuần đầu.
Chế độ ăn
Vịt con từ 1-3 ngày tuổi thường ăn cơm từ gạo lức nấu chín hoặc ngô mảnh nấu chín. Sau khi nguội, đổ ra máng cho ăn. Mỗi ngày nấu khoảng 3-4 kg gạo cho 100 con vịt, chia thành 4-5 bữa, trong đó có một bữa vào lúc 10 giờ đêm để khuyến khích ăn nhiều. Sau khi ăn xong, phải cho uống nước sạch hoặc nước pha lá hành. Trong giai đoạn này, không nên cho ăn thêm thức ăn đạm như con ruốc, cá, tôm, tép khô để tránh ngộ độc thực phẩm. Không nên để vịt con xuống nước nhiều để hạn chế nhiễm trùng rốn.
Tập cho vịt ăn từ từ, không nên cho ăn quá nhiều một lúc để tránh bội thực. Đồng thời, tập cho vịt xuống nước tắm. Vịt từ 11-16 ngày tuổi có thể ăn gạo lức hoặc ngô xay, không cần nấu chín mà chỉ cần ngâm nước cho mềm. Khi vịt trên 15 ngày tuổi, bắt đầu cho ăn lúa nấu chín. Mỗi ngày chỉ cho 2 bữa và kết hợp chăn thả ngoài đồng để vịt kiếm thêm thức ăn. Giai đoạn này cần bổ sung chất đạm như tôm, cua, cá khô băm nhỏ vào thức ăn.
Trong mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, vịt thường được thả trong ruộng lúa để tiêu diệt sâu bọ và các loại sâu hại khác. Việc này không chỉ giúp cây trồng phát triển khỏe mạnh mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc chăn nuôi. Tuy nhiên, để đảm bảo dinh dưỡng đầy đủ cho vịt, cần bổ sung thêm thóc lúa hoặc thức ăn công nghiệp.
Các loại
Vịt bầu Bến
Vịt Bầu Bến có nguồn gốc từ khu vực Chợ Bến, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình và hiện đang được nuôi phổ biến ở nhiều địa phương như Hà Nội, Hà Tây, Thanh Hoá và một số nơi khác. Vịt này có hình dáng bầu bĩnh, đầu to và cổ dài. Con mái có màu nâu-vàng xen lẫn, trong khi con trống có màu cánh sẻ ở đầu và lưng. Một số con có màu sắc khác biệt. Chân có màu vàng và đôi khi có chấm đen. Khi mới nở, trọng lượng của mỗi con là 42 g. Khi trưởng thành, con trống nặng từ 1,6 đến 1,8 kg, còn con mái nặng từ 1,3 đến 1,7 kg. Vịt bắt đầu đẻ trứng khi đạt khoảng 154 ngày tuổi. Trứng có trọng lượng từ 64 đến 66 g mỗi quả, và sản lượng trứng của mỗi con mái trong năm là từ 134 đến 146 quả. Tỷ lệ phôi đạt 95 đến 96% và tỷ lệ nở đạt 80%.
Vịt bầu Quỳ
Vịt bầu Quỳ có nguồn gốc từ huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An và hiện đang được nuôi rộng rãi tại các huyện Quỳ Châu, Quế Phong, Vinh (Nghệ An), cùng với Hà Nội, Hà Tây, và Thanh Hoá. Loại vịt này có hình dạng tương tự như vịt Bầu Bến. Khi trưởng thành, con trống nặng từ 1,6 đến 1,8 kg, còn con mái nặng từ 1,4 đến 1,7 kg. Vịt bắt đầu đẻ trứng khi đạt khoảng 162 đến 168 ngày tuổi. Trứng có trọng lượng từ 70 đến 75 g mỗi quả, tỷ lệ phôi đạt từ 96 đến 97%, và tỷ lệ nở trứng đạt 80%. Mỗi con mái có sản lượng trứng hàng năm từ 122 đến 124 quả.