Vịt đồng quê (còn được gọi là vịt đàn, vịt Tàu, vịt đồng, vịt chạy đồng) là giống vịt nhà bản địa ở Việt Nam, phổ biến trong các khu vực nông thôn của đất nước. Chúng có nguồn gốc từ vịt hoang dã, qua quá trình thuần hóa đã trở thành giống vịt phù hợp với chăn thả tự nhiên. Vì không có sự chọn lọc giống đặc biệt, giống vịt này hiện đang có sự pha trộn đa dạng. Vịt đồng quê sống theo bầy đàn, di chuyển linh hoạt, tìm mồi hiệu quả, chịu đựng điều kiện khắc nghiệt, chống bệnh tật tốt, và thích hợp với việc chăn thả ngoài đồng. Đây cũng là một biểu tượng của vùng quê Việt Nam, thường xuất hiện trong các khu vực sông nước.
Các đặc điểm
Vịt có lông màu vàng, xanh, hoặc màu cà cuống với các chấm đen, và một số con có màu đen nhạt. Sự pha trộn giống khiến lông vịt có nhiều màu sắc khác nhau. Vịt có đầu thanh, mắt sáng, nhanh nhẹn, mỏ dẹt, khỏe và dài, thường màu vàng nhưng cũng có màu xanh cà cuống hoặc màu tro. Cổ dài, thân thon nhỏ, ngực hơi lép. Chân hơi dài so với thân, thường màu vàng nhưng có thể là nâu hoặc đen (với những con có màu da xám). Những con khác có da hơi vàng. Chúng di chuyển nhanh nhẹn, kiếm mồi giỏi, và tỷ lệ sống cao.
Trọng lượng khi mới nở khoảng 42 g/con. Khi trưởng thành, con trống nặng khoảng 1,6 kg, còn con mái nặng 1,5 kg. Vịt Cỏ có trọng lượng thấp, tỷ lệ thịt thân khoảng 50%, và tỷ lệ xương từ 15-16% đối với vịt đã trưởng thành. Trọng lượng giết mổ ở 75 ngày tuổi chỉ đạt từ 950 đến 1100 gr/con. Sau khi bỏ nội tạng, đầu và chân, vịt còn lại 70% trọng lượng sống; thịt đùi chiếm 15,2% và thịt ức chiếm 8,8%. Vịt Cỏ nặng khoảng 1,2 - 1,4 kg và thịt rất thơm ngon.
Thịt vịt Cỏ (hay còn gọi là Vịt Tàu) có ít mỡ, khi nấu chín có màu hồng nhạt, thịt thơm ngon và béo. Ăn kèm với nước mắm gừng chua ngọt mang lại hương vị đặc biệt và kích thích vị giác. Vịt Cỏ là đặc sản nổi tiếng, đặc biệt là vịt Cỏ Vân Đình, hiện đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Loại vịt này không có khả năng tích mỡ nhiều, nên không được vỗ béo. Vịt Cỏ nhút nhát và hiếu động, với thực quản mỏng nên dễ vỡ khi nhồi béo, vì vậy không thực hiện vỗ béo cho chúng.
Vẻ ngoài lông
Vịt Cỏ có màu lông không đồng nhất. Một số con có lông nâu hòa quyện với màu nhạt, được gọi là vịt 'cà cuống'. Một số khác có lông trắng đục hoặc pha màu đen, xám. Vì sự đa dạng về màu lông, ở miền Nam, vịt Cỏ được phân loại thành nhiều loại khác nhau.
- Vịt có lông trắng tinh gọi là vịt Tầu Cò (Cỏ) (miền Nam)
- Vịt có lông trắng pha đen hoặc xám gọi là vịt Tầu Nổ (hay vịt Huế)
- Vịt có lông xám với vằn như cà cuống gọi là vịt Tầu Rằn
- Vịt có lông xám với khoang trắng gọi là vịt Tầu Phèn, hoặc màu đen (tàu ô), có loại lông đen với cổ trắng, ngực trắng (vịt tàu khoang)…
Đặc điểm sinh sản
Vịt Cỏ có thể đẻ từ 150 đến 250 quả trứng mỗi năm, tùy thuộc vào điều kiện nuôi dưỡng. Trứng nặng khoảng 65 g, và vịt có thể được giết thịt sau 70-80 ngày tuổi. Vịt phát triển lông nhanh chóng, và nếu nuôi thả, đến 65-75 ngày tuổi, vịt đã mọc đủ lông. Trứng vịt Cỏ có chất lượng tương đối tốt, với khối lượng trung bình 61,7 g, vỏ trắng đục, đôi khi có màu xanh nhạt gọi là trứng 'cà cuống'; vịt Cỏ đẻ từ 130 đến 160 trứng, và ở những khu vực đồng bãi tốt có thể lên đến 170-190 quả/năm (tương đương 8–12 kg trứng/năm). Vịt bắt đầu rớt hột khi 135-140 ngày tuổi, với thể trọng khoảng 1,2-1,4 kg/con; vịt đực bắt đầu giao phối ở tuổi 125-130 ngày với thể trọng 1,3-1,5 kg/con. Tỷ lệ trứng có phôi đạt 94,3%, và tỷ lệ trứng nở đạt 81,2%.
Vùng phân bố
Vịt Cỏ đã thích nghi tốt với cuộc sống chăn thả hiện tại. Vì không có sự can thiệp chọn lọc từ con người, giống vịt này đã trở nên pha tạp. Vịt Cỏ phân bố rộng rãi trên toàn quốc, chiếm khoảng 85% tổng đàn, chủ yếu tập trung ở các vùng lúa nước. Trong 10 năm qua, vịt có xu hướng chủ yếu xuất hiện ở Đồng bằng Bắc Bộ và ven biển miền Trung, trong khi số lượng vịt ở các tỉnh phía Nam đã giảm và được thay thế bằng vịt Anh Đào. Ở miền Tây, món vịt thả đồng với hương vị đặc trưng, đặc biệt là món vịt nấu chao, rất được ưa chuộng. Hầu hết các hộ dân đều nuôi vịt, với số lượng lớn để bán trứng và thịt, và số lượng nhỏ để sử dụng trong các bữa tiệc và liên hoan.
Giống lai
Trung tâm Nghiên cứu Vịt Đại Xuyên đã phát triển giống vịt TC, là kết quả lai giữa vịt Cỏ và vịt Triết Giang. Giống vịt này có màu lông đồng nhất, với màu cánh sẻ nhạt hơn so với vịt Cỏ nhưng đậm hơn so với vịt Triết Giang. Tỷ lệ nuôi sống của vịt TC khá cao, chúng bắt đầu đẻ từ 17-18 tuần tuổi. Vịt TC là giống đẻ trứng tốt, đạt khoảng 280-290 quả/mái/năm, với năng suất trung bình khoảng 250 quả trứng/con/năm. Tỷ lệ trứng đạt tiêu chuẩn giống trên 95%, tỷ lệ ấp nở từ 85-90%. Tỷ lệ vịt bố mẹ chết hoặc loại thải hàng tháng khoảng 1-1.5%, tiêu tốn khoảng 1.5-1.7 kg thức ăn để sản xuất 10 quả trứng. Trọng lượng vịt mẹ khi đẻ bói khoảng 1.7 kg, khi đẻ rộ từ 1.3-1.4 kg, và trọng lượng trứng là 70-75 g.
Vịt TC có thể được nuôi theo nhiều phương pháp khác nhau như: nuôi nhốt hoàn toàn trong chuồng; nuôi nhốt trong chuồng với sân chơi hoặc khu vực có vườn cây hoặc ao cá gần bên. Ngoài ra, có thể nuôi kết hợp với trồng lúa hoặc nuôi chạy đồng. Với quy mô nuôi khoảng 1000 vịt siêu (hoặc TC) đến khi đẻ bói, chi phí cho giống, thức ăn, thuốc thú y có thể lên tới khoảng 160 triệu đồng. Để sản xuất một quả trứng, chi phí khoảng 1.800-2.000 đồng.