

Thềm lục địa là phần rìa của lục địa, vốn là các vùng đất liền trong thời kỳ băng hà, hiện nay là các biển nông và vịnh. Thềm lục địa có độ dốc nhẹ (1-2°) và thường kết thúc bằng các sườn dốc đứng (còn gọi là đứt gãy thềm lục địa). Dưới các đứt gãy là dốc lục địa với độ dốc cao hơn nhiều so với thềm lục địa. Tại chân sườn, đáy biển thoải dần, tạo ra bờ lục địa, sau đó hợp nhất với đáy đại dương phẳng, có độ sâu từ 2.200 đến 5.500 m.
Chiều rộng của thềm lục địa thay đổi đáng kể. Nhiều khu vực không có thềm lục địa, đặc biệt là ở những nơi vỏ đại dương gần vỏ lục địa như bờ biển Chile hoặc bờ phía tây đảo Sumatra. Thềm lục địa lớn nhất— thềm lục địa Siberi ở Bắc Băng Dương— kéo dài tới 1.500 km. Biển Đông nằm trên thềm lục địa Sunda, nối liền các đảo Borneo, Sumatra và Java với châu Á. Các biển khác như biển Bắc và vịnh Ba Tư cũng nằm trên thềm lục địa. Chiều rộng trung bình khoảng 80 km và độ sâu thay đổi từ 30 m đến 600 m.
Các trầm tích được vận chuyển đến thềm lục địa từ đất liền qua hiện tượng xói mòn. Với độ chiếu sáng cao từ Mặt Trời, các vùng biển nông tại thềm lục địa rất phong phú về sinh vật so với các sa mạc và đáy đại dương. Cá tuyết tại Grand Banks ngoài Newfoundland đã cung cấp thực phẩm cho người châu Âu hơn 500 năm trước khi bị khai thác cạn kiệt. Nếu điều kiện yếm khí chiếm ưu thế trong các lớp trầm tích, theo thời gian chúng có thể trở thành nguồn nhiên liệu hóa thạch.
Việc tiếp cận thềm lục địa dễ dàng hơn giúp chúng ta khám phá đáy đại dương hiệu quả. Hầu hết các hoạt động khai thác thương mại, như khai thác dầu khí, đều diễn ra trên thềm lục địa. Quyền chủ quyền trên các thềm lục địa được các quốc gia ven biển đề xuất theo Công ước về thềm lục địa, do Ủy ban luật quốc tế của Liên Hiệp Quốc ban hành năm 1958, với một số sửa đổi được thực hiện theo Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển năm 1982.
Về mặt pháp lý quốc tế
Thuật ngữ thềm lục địa trong khoa học địa chất và hải dương học có sự khác biệt so với định nghĩa pháp lý của nó.
- Điều 1 của Công ước về thềm lục địa năm 1958 quy định như sau:
- Article 1
- Article 1
- The term 'continental shelf' refers to:
- (a) the seabed and subsoil of submarine areas adjacent to the coast but outside the territorial sea, to a depth of 200 metres or, beyond that limit, to where the depth of the superjacent waters allows for the exploitation of natural resources;
- (b) the seabed and subsoil of similar submarine areas adjacent to the coasts of islands.
- Bản dịch tiếng Việt:
- Điều 1
- Thuật ngữ 'thềm lục địa' được hiểu như sau:
- (a) đáy biển và lớp đất dưới đáy biển ở các khu vực gần bờ nhưng không nằm trong lãnh hải, đến độ sâu 200 mét hoặc, nếu vượt quá giới hạn này, đến nơi độ sâu của các vùng nước trên cho phép khai thác tài nguyên thiên nhiên;
- (b) đáy biển và lớp đất dưới đáy biển của các khu vực tương tự gần bờ các đảo.
Quy định này không thực tế và không công bằng do sự chênh lệch về công nghệ giữa các quốc gia. Công ước luật biển năm 1982 đã đưa ra định nghĩa công bằng hơn, trong đó thềm lục địa bao gồm đáy biển và lớp đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải, kéo dài tự nhiên của lãnh thổ quốc gia cho đến bờ ngoài của dốc lục địa hoặc cách đường cơ sở 200 hải lý (370,4 km), nếu bờ ngoài của dốc lục địa gần hơn 200 hải lý. Nếu bờ ngoài kéo dài tự nhiên lớn hơn 200 hải lý, quốc gia có thể xác định ranh giới ngoài thềm lục địa như sau:
- Hoặc theo độ dày trầm tích: Đường nối các điểm cố định với độ dày trầm tích lớn hơn hoặc bằng 1% khoảng cách từ điểm đó đến chân dốc lục địa.
- Hoặc theo khoảng cách: Đường nối các điểm cố định ở cách chân dốc lục địa tối đa 60 hải lý (111,1 km).
- Chiều rộng tổng cộng của thềm lục địa tính từ đường cơ sở không vượt quá 350 hải lý (648,2 km) hoặc cách đường đẳng sâu 2.500 mét không quá 100 hải lý (185,2 km), tuân theo Công ước luật biển 1982 và các hướng dẫn của Ủy ban ranh giới thềm lục địa theo Phụ lục II của Công ước.
Ngoài ra, để tránh mở rộng quá 200 hải lý, có thêm 2 điều kiện bổ sung như sau:
- Các tọa độ phải được xác định rõ ràng và thông tin tính toán phải được gửi cho Ủy ban ranh giới thềm lục địa trước năm 2009.
- Cần thực hiện nghĩa vụ đóng góp tài chính hoặc hiện vật liên quan đến việc khai thác tài nguyên phi sinh vật ngoài phần thềm lục địa cơ bản (200 hải lý đầu).
Khung pháp lý
Các quốc gia ven biển và quốc gia quần đảo có quyền chủ quyền đối với thềm lục địa và tài nguyên khai thác từ đó. Họ cũng có quyền tài phán đối với các đảo nhân tạo, công trình trên thềm lục địa, nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi trường. Quyền chủ quyền và tài phán này không ảnh hưởng đến quyền đối với vùng nước và vùng trời phía trên.
- Vùng nội thủy
- Lãnh hải
- Vùng tiếp giáp lãnh hải
- Vùng đặc quyền kinh tế
- Vùng biển quốc tế
Các liên kết tham khảo
- Văn phòng Nghiên cứu Hải quân: Các khu vực đại dương, thềm lục địa và dốc lục địa