


Chân Lạp
|
|||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ | |||||||||
550–802 | |||||||||
Vị thế | Đế quốc | ||||||||
Thủ đô |
| ||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Khmer cổ, tiếng Phạn | ||||||||
Tôn giáo chính | Hindu giáo, Phật giáo | ||||||||
Lịch sử | |||||||||
Thời kỳ | Trung Cổ | ||||||||
• Vassal of Fúnán | 550 | ||||||||
• Embassy to China | 616/617 | ||||||||
• Chia tách "Lục Chân Lạp" và "Thủy Chân Lạp" | 706/717 | ||||||||
• Tuyên bố Đế quốc Khmer | 802 | ||||||||
| |||||||||
Hiện nay là một phần của | Campuchia Lào Thái Lan Việt Nam |

Lịch sử Campuchia |
---|
Phù Nam (thế kỷ 1- 550) |
Chân Lạp (550-802) |
Đế quốc Khmer (802-1432) |
Thời kỳ hậu Angkor (1432-1863) |
Campuchia thuộc Pháp (1863-1946) |
Campuchia thuộc Nhật (1945) |
Vương quốc Campuchia (1946-1953) |
Vương quốc Campuchia (1953-1970) |
Cộng hòa Khmer (1970-1975) |
Campuchia Dân chủ (1975-1979) |
Cộng hòa Nhân dân Campuchia (1979-1989) |
Liên minh chính phủ Kampuchea Dân chủ (1982-1992) |
Nhà nước Campuchia (1989-1992) |
Cơ quan chuyển tiếp Liên Hợp Quốc tại Campuchia (1992-1993) |
Vương quốc Campuchia (1993-nay) |
Chân Lạp, còn gọi là Chenla hoặc Zhenla (giản thể: 真腊; phồn thể: 真臘; Hán-Việt: Chân Lạp; bính âm: Zhēnlà; Wade–Giles: Chen-la; tiếng Khmer: ចេនឡា, phát âm: Chơn La) là một quốc gia của người Khmer tồn tại từ khoảng năm 550 đến năm 802, nằm ở phần phía nam của bán đảo Đông Dương, bao gồm cả Campuchia và một số tỉnh phía nam của Việt Nam hiện tại.
Theo truyền thuyết, triều đại các vị vua của Chân Lạp bắt nguồn từ nhân vật thần thoại Campu, người có liên quan đến nàng Naga (con gái thần nước, được biến hóa từ rắn thành thiếu nữ). Từ 'campu' cũng chính là nguồn gốc của tên gọi Campuchia ngày nay.
Các vương quốc lân cận trong thời kỳ đầu bao gồm Chăm Pa ở phía đông, Phù Nam ở phía nam và Dvaravati (nay thuộc Thái Lan) ở phía tây bắc.
Ban đầu là một nước chư hầu của Phù Nam (khoảng trước năm 550), sau đó trong vòng 60 năm, quốc gia này đã đạt được độc lập và dần dần vượt trội hơn Phù Nam. Đến thế kỷ 6, họ đã chiếm lĩnh miền bắc Phù Nam. Cuối cùng, vào thế kỷ 7 (khoảng từ năm 612 đến 628), quốc gia này đã hoàn toàn chinh phục Phù Nam, tiếp quản toàn bộ dân cư nhưng vẫn tiếp thu văn hóa của họ. Năm 613, Ishanapura trở thành kinh đô đầu tiên của đế quốc mới.
Chronicles

Người Khmer đã di cư từ vùng phía bắc sông Chao Phraya qua Thung lũng sông Mun và tiến về sông Mê Kông. Ban đầu, họ định cư tại khu vực tương ứng với miền trung và nam Lào cũng như đông bắc Thái Lan ngày nay. Các ghi chép của Trung Hoa cổ đại nhắc đến hai vị vua, Shrutavarman (trị vì từ 435-495) và Shreshthavarman (trị vì từ 495-530), trị vì tại kinh đô Shreshthapura, hiện nay nằm ở miền nam Lào gần Wat Phu ở Champasak. Đến thời vua Bhavavarman I (550-598), với kinh đô đặt tại Bhavapura (có thể là khu vực Sambor Prei Kuk, tỉnh Kampong Thom, Campuchia), Chân Lạp đã bắt đầu các cuộc chiến chống lại Phù Nam. Sau cái chết của Bhavavarman I năm 598, anh trai ông là Citrasena (còn gọi là Mahendravarman, thực quyền từ năm 590) tiếp tục mở rộng lãnh thổ. Ishanavarman I, con trai của Citrasena, đã hoàn tất việc chinh phục Phù Nam trong khoảng thời gian 612-628 và đổi tên kinh đô từ Bhavapura thành Ishanapura.
Sau khi vua Bhavavarman II qua đời năm 656, phần lớn Chân Lạp bị chia nhỏ thành các tiểu quốc độc lập. Vua Jayavarman I đã nỗ lực để thống nhất đất nước và đã phục hồi phần lớn lãnh thổ từng thuộc về vua Ishanavarman I.
Sau cái chết của vua Jayavarman I vào năm 700, vương quốc Chân Lạp lại rơi vào tình trạng bất ổn và bị phân chia giữa các thế lực cát cứ. Theo các tài liệu Trung Hoa, vào thế kỷ 8, Chân Lạp bị chia thành hai tiểu quốc chính là Lục Chân Lạp (với trung tâm ở tỉnh Champasak hiện nay của Lào) và Thủy Chân Lạp (bao gồm đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam và miền nam Campuchia ngày nay). Từ hai tiểu quốc này, có thể đã phân chia thành nhiều tiểu quốc nhỏ hơn, làm suy yếu thêm Chân Lạp. Các tiểu quốc nổi bật ở Thủy Chân Lạp bao gồm Shambupura, Vyadhapura, Souht Prei Veng, và Bhavapura, với trung tâm tại Sambor Prei Kuk. Năm 716, Pushkaraksha, người cai trị Shambhupura (khu vực Kratie ngày nay), tuyên bố mình là vua của toàn bộ Kambuja. Cùng thời điểm này, Shambhuvarman, con trai của Pushkaraksha, kiểm soát phần lớn Thủy Chân Lạp cho đến khi người Mã Lai và người Java chiếm ưu thế trên nhiều tiểu quốc Khmer. Các ghi chép cổ cũng đề cập đến Rjendravarman I, con trai của Shambhuvarman và Mahipativarman, con trai của Rjendravarman I, người có thể đã bị người Java chặt đầu.
Vị vua Chân Lạp
Thứ tự | Vua | Trị vì |
1 | Bhavavarman I | 550–600 |
2 | Mohendravarman | 600–616 |
3 | Isanavarman I | 616–635 |
4 | Bhavavarman II | 639–657 |
5 | Candravarman? | ? |
6 | Jayavarman I | 657–690 |
7 | Queen Jayavedi | 690–713 |
8 | Sambhuvarman | 713–716 |
9 | Pushkaraksha | 716–730 |
10 | Sambhuvarman | 730–760 |
11 | Rajendravarman I | 760–780 |
12 | Mahipativarman | 780–788 |
Chú thích
Tài liệu tham khảo
- “'Nhà nước Zhenla” Lịch sử người Khmer. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2006.
- Báu vật Angkor. ISBN 88-544-0117-X