Đối với những người đọc đã từng học tiếng Anh qua một thời gian dài hay dù chỉ mới bắt đầu thì có lẽ cũng đã biết hoặc gặp phải những trường hợp những từ có cùng cách phát âm với nhau nhưng viết khác nhau và nghĩa của từ cũng khác nhau. Một trường hợp điển hình mà đa phần người đọc đã gặp chính là flour (bột) /flaʊər/ và flower (hoa) /flaʊər/. Dù có cách phát âm giống hệt nhau và có thể thay đổi nghĩa trong câu hoàn toàn nhưng không phải không có cách để phân biệt chúng. Thông qua bài viết này tác giả sẽ nêu ra một số cách để người đọc không bị gây rối bởi những homophones “gây rối” sẽ gặp phải trong quá trình luyện học.
Key takeaways
Homophone là từ có cách phát âm giống một từ khác nhưng mang ý nghĩa hoặc cách viết khác nhau
Có 2 dạng homophone: cùng loại từ, khác loại từ
Người học phân biệt homophone cùng loại từ bằng cách dựa vào ngữ cảnh để đoán ý nghĩa của từ, và phân biệt homophone khác loại từ bằng cách dựa vào cấu trúc trong câu để đoán từ có loại từ phù hợp.
Trong trường hợp không phân biệt được homophone khi làm bài IELTS Listening, người học nên ghi lại phiên âm tiếng Việt của từ rồi sử dụng 10 phút điền đáp án để suy luận từ đúng nhất.
Homophones là gì
Các dạng homophone phổ biến
Flower /flaʊər/ - Hoa | Flour /flaʊər/ - Bột |
Bee /biː/ - Con ong |
Be /biː/ - Là |
Sea /siː/ - Biển | See /siː/ - Thấy |
Their /ðeər/ - Của họ | They’re /ðeər/ - Họ là, Chúng là |
Bear /beər/ - Con gấu | Bare /beər/ - Chịu đựng |
Aisle /aɪl/ - Lối đi giữa các hàng ghế | Isle /aɪl/ - Một ốc đảo nhỏ |
Aren’t /ɑːnt/ - Không là, Không phải | Aunt /ɑːnt/ - Dì, Mợ, Thím, Bác gái |
Các homophone cùng loại từ và cách phân biệt
Đa phần các trường hợp homophone cùng loại từ mà người đọc gặp phải sẽ là flower và flour, aisle và isle, v.v.. đều là danh từ thì việc phân biệt chúng khá đơn giản. Cụ thể hơn, người đọc chỉ cần nghe thông tin phụ hoặc thông tin thêm phía sau của người nói trong đề thi để có thể biết chính xác được từ mà họ muốn ám chỉ là gì. Tác giả sẽ làm một ví dụ đơn giản:
- Speaker 1: Today is a special day, can you go to the supermarket to buy me some /flaʊər/
A. Flower B. Flour
- Speaker 2: Sure, I am also on the way to the supermarket.
Trong trường hợp trên, người đọc có thể biết được đáp án sẽ là A vì đã có thông tin phụ ở ngay trước nó là some. Chi tiết hơn về vấn đề này, vì từ some sẽ bổ trợ cho một danh từ đếm được như Flower là danh từ đếm được với ý nghĩa là bông hoa. Như vậy, ở tình huống này, đáp án không thể là Flour được vì bột là danh từ không đếm được. Để làm rõ thể về cách phân biệt chúng, người đọc xem trường hợp sau:
- Harry: The /aɪl/ is pretty small, is it Sam ?
A. Isle B. Aisle
- Sam: Yeah, I can hardly even walk, let alone the cart.
Ở ví dụ trên, đáp án sẽ là B vì ở đây người đọc sẽ có thể phân biệt được thông qua một thông tin thêm là “I can hardly even walk” vì Isle có nghĩa là một đảo nhỏ trong khi Aisle lại là một lối đi giữa các hàng ghế trong cửa hàng, máy bay, trên xe v.v.. Vậy trong tình huống trên, dù một ốc đảo (Isle) có nhỏ đến mấy cũng không thể gây khó khăn cho người di chuyển trên nó được vậy nên ở đây lối đi (Aisle) sẽ là đáp án chính xác.
Các homophone khác loại từ và cách nhận biết
Trong trường hợp này, đa phần do các loại từ đều khác nhau nên người đọc có thể dựa vào cấu trúc trong câu để có thể nhận ra được ngay lặp tức đáp án muốn nói tới là gì. Giả sử:
- Speaker 1: It’s been a while since the last time I went to the /siː/.
- Speaker 2: Let’s set up the plan for the trip, shall we ?
Ở đây người đọc có thể nhận ra đáp án là Sea vì trong cấu trúc câu này từ cần điền là một danh từ nên chắc chắn không thể nào là See được. Một ví dụ khác mà tác giả nhận thấy nhiều người đọc hay bị nhầm lẫn với nhau chính là cặp homophone Their và They’re. Cách để phân biệt chúng vẫn phải dựa vào cấu trúc trong câu và loại từ liền sau của chúng để phân biệt.
Ví dụ 1:
- Tom: Hey, do you see my brothers Shally?
- Shally: /ðeər/ playing football?
Ví dụ 2:
- Tom: Are these my books Shally?
- Shally: No, they belong to Mark and Shane. /ðeər/ names are on the first page.
Trong ví dụ 1, đáp án sẽ là They’re vì ngay sau nó là một động từ ở trạng thái tiếp diễn (Verb-ing) nên theo như cách thức của thì hiện tại tiếp diễn trước đó phải là một Danh từ với một động từ To-be: They are và ghi ngắn gọn thành They’re với cách phát âm là /ðeər/. Tuy nhiên ở trường hợp ví dụ 2, người đọc không thể điền They’re vào đáp án được vì ngay sau nó là một danh từ, do đó ở vị trí này cần một tính từ, và cụ thể hơn là một tính từ sở hữu nên đáp án sẽ là Their.
Cách xử lý khi chưa phân biệt được homophone
Để có thể phân biệt các homophone, người đọc cần nắm vững cách phát âm chính xác của các từ và sau đó mới có thể phân biệt chúng. Tuy nhiên, trong quá trình Listening, nếu người đọc gặp phải tình huống không thể phân biệt được chúng, họ không nên hoảng hốt và mất tập trung vào việc suy nghĩ về việc điền từ đúng ngay lúc đó, vì điều này có thể làm họ mất tập trung và không thể điền đáp án cho các câu tiếp theo. Thay vào đó, họ nên bình tĩnh và ghi chú lại âm thanh của từ đó, sau đó chuyển đáp án sau khi đã suy nghĩ kỹ lưỡng và phân tích. Minh họa cho điều này, tác giả sẽ lấy ví dụ từ mục 2 để người đọc dễ dàng theo dõi.
Giả sử trong tình huống người đọc nghe được âm thanh /ðeər/ nhưng không phân biệt được They’re hoặc Their do bài nói được phát liên tục mà không có khoảng nghỉ và thậm chí không biết phiên âm của nó (phonetics) ghi như thế nào. Trong tình huống này, vì không còn cách nào khác, người đọc có thể viết lại âm đó bằng TIẾNG VIỆT là /đe/. Sau đó, họ tiếp tục làm bài cho đến cuối giờ rồi sử dụng 10 phút cuối để suy luận từ với âm thanh /đe/ này có thể là từ gì. Như vậy, trong trường hợp người đọc chưa biết từ đó viết ra như thế nào và có homophone hay không, họ nên thực hiện hành động này liên tục cho tất cả các từ không nghe được và dùng 10 phút cuối để chuyển tất cả đáp án qua tờ trả lời và suy luận cho các câu chưa điền.