(Mytour) Những câu chuyện nhỏ dần hé lộ cho chúng ta biết Xá Lợi Phất là ai. Từ đó chúng ta có cơ hội học hỏi về những phẩm chất tuyệt vời của Ngài.
1. Thời niên thiếu và duyên lành xuất gia
Một ngày tại thành Vương Xá, Xá Lợi Phất gặp một Tỳ kheo của Đức Phật. Thấy phong độ uy nghi của Mã Thắng, Xá Lợi Phất tỏ lòng kính phục và được nghe giáo lý duyên sinh.
Nghe thuyết duyên sinh, Xá Lợi Phất thấu suốt được sự thành hoại của vũ trụ duyên sinh và rất thán phục Đức Phật, nên theo Mã Thắng đến Trúc Lâm Tinh Xá bái yết Đức Phật. Trước Đức Phật Xá Lợi Phất xin được quy y và xin được đưa Mục Kiền Liên đến Tinh Xá Trúc Lâm.
Nghe thuyết duyên sinh, Xá Lợi Phất thấu suốt được sự thành hoại của vũ trụ duyên sinh và rất thán phục Đức Phật, nên theo Mã Thắng đến Trúc Lâm Tinh Xá bái yết Đức Phật. Trước Đức Phật Xá Lợi Phất xin được quy y và xin được đưa Mục Kiền Liên đến Tinh Xá Trúc Lâm.
Nhận ra rằng hai người này có duyên lành đủ để trở thành Đệ tử xuất sắc của mình, Đức Phật chấp nhận hai người vào Tăng Đoàn của Ngài. Chỉ trong thời gian ngắn, cả hai đã trở thành những đệ tử hàng đầu của Đức Phật nhờ trí tuệ vượt trội về pháp học và pháp hành.
2. Truyền thuyết về ngài Xá Lợi Phất
Mẹ của Tôn giả Xá Lợi Phất là chị ruột của Ma Ha Câu Hy La (Kausthila), tức là Phạm Chí Trường Trảo. Trước đây khi hai chị em tranh luận về giáo lý, chị thường thất bại. Tuy nhiên, kể từ khi mang thai Xá Lợi Phất, trí tuệ của chị bỗng nhiên vượt trội, có thể luận thắng em trai, khiến cậu ta luôn bí lối và phải chịu thua chị.
Với trí thông minh của mình, Trường Trảo biết rằng chị mình luôn thắng là nhờ đứa cháu trong bụng. Do đó, vì lo ngại sau này có thể bị đánh bại bởi đứa cháu thông minh của mình, ông quyết định đi học 18 bộ kinh tại Nam Thiên Trúc.
Sau khi tập trung vào học hành một thời gian, ông trở nên thành thạo trong tất cả các lĩnh vực kiến thức và tranh luận của miền Nam Ấn Độ như y học, bói toán và chiêm tinh. Tuy nhiên, khi ông trở về nhà, ông nghe tin rằng cháu đã rời đi xuất gia theo Phật.
Nghe tin cháu mình đã xuất gia theo Phật, ông cảm thấy tự cao tự đại, tự nghĩ rằng:
Tâm kiêu ngạo khiến ông muốn tìm hiểu xem vị Sa môn đó có năng lực gì mà có thể thuyết phục được đứa cháu của ông.
Khi gặp Phật, ông đã đề xuất một cuộc thi tranh luận: nếu ông thua, ông sẵn sàng đầu hàng cho Ngài; nếu Phật thua, ông sẽ yêu cầu đứa cháu trở về.
Trong cuộc tranh luận, Trường Trảo chọn 'bất thọ' làm phương thức tranh luận, tức là cho dù Phật nói gì cũng không chấp nhận, không quan tâm.
Phật nói:
Phật hỏi ông, như vậy đã khiến ông cứng họng, không trả lời được. Nếu ông chấp nhận ý kiến của mình thì đó là 'thọ'; nếu ông không chấp nhận ý kiến của mình thì căn bản không có tông.
Phật nói:
- Trong giáo pháp Phật không có phương thức như vậy! Ông thua, coi như đã xong, liệu ông sẽ phải cắt đầu sao?
Sau đó Phật thuyết giảng cho ông; vừa nghe, ông nhận được sự hiểu biết sâu sắc, mở được con mắt của Pháp.
Mắt Pháp mở ra, ông nhận thấy sự diệu kỳ vô tận của giáo lý Phật, những gì ông học hành suốt 18 năm qua không bằng một phần nhỏ của giáo lý Phật! Vì thế ông quyết định xuất gia theo Phật.
3. Tại sao Xá Lợi Phất được coi là Trí tuệ đệ nhất
Tôn giả Xá Lợi Phất được biết đến với sự thông thái vô cùng, là người đầu tiên hệ thống hóa và giải thích chi tiết những bài Kinh mà Đức Thế Tôn giảng dạy. Ngài luôn khuyến khích và giúp đỡ huynh đệ trong tu hành, dùng những ví dụ phong phú để giảng dạy dễ hiểu.
Khi Ngài vẫn còn là một tu sĩ mới, Ngài đã được hỏi bởi một vị Thầy:
Ngài đáp:
Lúc đó, vị Thầy nói với ông:
Xá Lợi Phất chuyên tâm hành giả từ sáng đến tối mỗi ngày, không ngừng trì tụng.
Ngài thậm chí còn nguyện rằng từng đời kiếp Ngài luôn kính lễ vị Thầy đã dạy pháp Bát Nhã, để mỗi đời đều được gia tăng trí huệ.
Khi Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật, Ngài đạt được trí huệ vượt trội, có thể hiểu rõ các pháp trong vòng 7 ngày.
Thầy của Ngài trong thời tu nhân chính là Đức Thế Tôn, khi Người trở thành Phật, Ngài cũng trở thành Đại A La Hán nhờ nhân duyên đó.
Tiền kiếp của Xá Lợi Phất
Xá Lợi Phất không yên lòng khi thấy Đức Phật nhập Niết bàn, nên dùng lửa thần thông tự thiêu để vào Niết bàn trước.
Đức Phật kể lại rằng hàng kiếp trước, Xá Lợi Phất đã từng hành động tương tự, mong muốn được nhập Niết bàn trước Phật.
Cách đây hơn một kiếp A tăng kỳ, có vị quốc vương Ba La Nại tên Đại Quang Minh tu hạnh bố thí không nghịch ý, mang đồ bố thí cho dân những tháng.
Dân chúng các Tiểu quốc đến nhận đồ bố thí của vua, đất nước thái bình an, tiếng lành cứ truyền xa, họ cảm tạ và ca ngợi ân đức của vị vua.
Tuy nhiên, mọi người đều im lặng, không ai dám nhận nhiệm vụ khiến Tiểu vương rất thất vọng. Sau đó, ông truyền bố rằng ai dám xin đầu vua Đại Quang Minh đem về sẽ được thưởng mười ngàn cân vàng.
Một người Bà La Môn vì lòng tham khi nghe số tiền thưởng lớn nên xin vua cho mình nhận nhiệm vụ. Tiểu vương ngay lập tức cấp ngựa xe và thức ăn, thúc đẩy người Bà La Môn nhanh chóng lên đường.
Khi người Bà La Môn đến cửa thành Ba La Nại, bầu trời bỗng đen đủi, đất nứt nẻ, chim bay loạng choạng, mặt trăng mờ nhạt, suối ao cạn khô, hoa quả héo tàn, cây lá úa rụng,... Dân chúng sợ hãi trước cảnh tượng bất thường trên khắp Ba La Nại.
Lính gác cửa thành hỏi người Bà La Môn từ đâu tới, người này kể lại những cảnh khốn khổ đã trải qua trên đường từ Tiểu quốc đến đây, mong gặp vua Đại Quang Minh để trình bày việc quan trọng.
Tuy nhiên, khi hỏi việc quan trọng là gì, người Bà La Môn không tiết lộ. Lính gác cửa thành vẫn kiên quyết không cho vào. Người này đứng ngoài cửa thành suốt bảy ngày đêm, cuối cùng mới nói ra rằng muốn xin đầu vua Đại Quang Minh vì biết Ngài tu hạnh bố thí bất nghịch ý, chắc chắn sẽ được vua đồng ý.
Nghe những lời này, quân lính tỏ ra tức giận, đuổi đánh mắng mỏ, viên tướng nghe được sự việc này mới đưa tin cho vua Đại Quang Minh. Nhà vua nghe tin liền cho mời người Bà La Môn vào cung kiến.
Người Bà La Môn giả vờ khóc lóc kể than rằng đã mất một tháng để đến đây nhưng không được vào cung, bị hành hạ suốt bảy ngày qua. Thế nhưng đã gian khổ như vậy chỉ mong Đại Vương thương tình hứa cho một điều duy nhất.
Vua Đại Quang Minh hỏi người Bà La Môn muốn gì thì cứ nói. Người này mới nói:
- Có thể nói sự độ nhân từ cao cả của Đại vương vang dội khắp bốn phương thiên hạ, mọi người đều tôn kính ngưỡng mộ. Hành động tu hạnh bố thí bất nghịch ý của Đại vương được chứng thực bởi mười phương thánh thần trời đất. Tôi vất vả vượt biển lớn, gian khổ không kể, chỉ mong Đại vương nhận lấy đầu tôi làm bố thí, để lòng biết ơn của Đại vương vẫn mãi trong tâm tưởng của dân chúng vạn kiếp sau.
Những lời người Bà La Môn dám nói khiến các quan thần cảm thấy tức giận tột cùng, chỉ muốn kéo người này ra chém đầu ngay lập tức.
Tuy vua Đại Quang Minh cố gắng an ủi mọi người, nhưng người Bà La Môn ngày càng lấn tới, cho rằng nếu sự Ân đức của việc tu hạnh bố thí bất nghịch ý của Ngài giúp ý nguyện của ông ta thành sự thì ông sẽ cảm thấy hạnh phúc như nhận được phước lộc.
Nhà vua lúc này nghĩ rằng từ vô thỉ kiếp này, bao lần chuyển thân là vì tiếc cái thân của mình. Nay ta vì hoàn thành sự hạnh nguyện bố thí bất nghịch ý, để cầu đạo quả Vô thượng Bồ Đề giải thoát chúng sinh, thì không có gì phải tiếc.
Sau đó vua hứa rằng chờ trong vòng bảy ngày sẽ đưa người lên ngôi vua, phu nhân, thái tử và quốc thành, rồi sẽ trao cái đầu. Mọi người cố gắng ngăn cản nhưng vô ích.
Thậm chí có hơn 500 vị đại thần cố gắng xin tên Bà La Môn đổi châu ngọc vàng bạc quý báu nhưng đều bị từ chối, chỉ muốn nhất quyết xin cái đầu của vua Đại Quang Minh.
Nhà vua nói rằng sẽ vì hết thảy chúng sinh mà xả thân bố thí, không để bất cứ điều gì ngăn cản sự hạnh nguyện bố thí bất nghịch ý, sau đó cúi đầu thành kính, hướng về bốn phương thốn lễ phát nguyện:
Khi nói xong, vua tự mình cắt đầu trao cho người Bà La Môn, khiến trời đất rúng động, trên trời như hát chúc tụng, hoa mưa rơi khắp nơi.
Khi vua thành tâm lễ lạy mười phương, phát nguyện thực hành hạnh bố thí bất nghịch ý, đệ nhất quan đầu triều không chịu nhìn thấy cảnh tượng đau lòng, vội vào phòng riêng tự sát.
Đó là lý do tôn giả Xá Lợi Phất trải qua nhiều kiếp, thực hành tâm nguyện chết trước Đức Phật như thế, không chỉ trong một kiếp duy nhất.
Xá Lợi Phất viên tịch.
Đến khi vượt qua tuổi 80, Xá Lợi Phất rất đau lòng khi nghe tin bạn thân Mục Kiền Liên bị ám hại và chết bi thảm tại thành Xá Vệ khi đang thuyết pháp ngoài đạo.
Xá Lợi Phất rất xót xa với hai tin này, Ngài xin được về thăm mẹ và nhập Niết Bàn trước Phật. Ngài giải thích rằng trong quá khứ các đệ tử hàng đầu đều nhập Niết Bàn trước giáo chủ đương thời.
Sau khi chia tay mọi người, Xá Lợi Phất cùng với một sa di tên là Quân Đầu quay về thôn Ca La Tỳ Ma Ca để gặp lại mẹ đã ngoài 100 tuổi.
Xá Lợi Phất từng khiến mẹ thất vọng hoàn toàn vì rời bỏ giáo đoàn Bà La Môn để xuất gia làm đệ tử Phật.
Đây cũng là lý do tại sao Xá Lợi Phất muốn hóa độ mẹ già hơn 100 tuổi trước khi Ngài nhập Niết Bàn.
Sau khi gặp mẹ, Xá Lợi Phất không chỉ giảng giải đạo lý của Đức Phật mà còn xin phép mẹ được từ giã cõi đời tại quê nhà.
Sau đó, tôn giả gọi dân làng đến để từ biệt. Trước dân làng, trước môn đồ và cả vua A Xà Thế, Ngài tỏ ra yêu quê hương và dạy giáo pháp Phật cho mọi người.
Sau khi làm lễ trà tỳ, sa di Quân Đầu mang hài cốt tôn giả về trình Đức Phật. Đức Phật tập họp đại chúng và dạy rằng: 'Đây là hài cốt của Xá Lợi Phất, một bậc trí tuệ hàng đầu.' Đức Phật ca ngợi công lao của Xá Lợi Phất trong việc truyền bá giáo pháp cao huyền ở phương Bắc.