śāriputra शारिपुत्र | |
---|---|
Hoạt động tôn giáo | |
Tôn giáo | Phật giáo |
Sư phụ | Thích-ca Mâu-ni |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Ngày sinh | 568 TCN |
Nơi sinh | Rajgir |
Mất | |
Ngày mất | 484 TCN |
Nơi mất | Rajgir |
Giới tính | nam |
Nghề nghiệp | nhà triết học, tu sĩ |
Quốc tịch | Magadha |
Cổng thông tin Phật giáo | |
Xá-lợi-rũ (tiếng Phạn: śāriputra, tiếng Pali sāriputta; tiếng Trung: 舍利弗) cũng được gọi là Xá-lợi tử, 'con trai của bà Xá-lợi (śāri)', là một nhà lãnh đạo tâm linh ở Ấn Độ cổ đại. Ông cùng Mục-kiền-liên là hai đệ tử tỳ-kheo gương mẫu nhất của Phật Thích-ca Mâu-ni và được xem là người có 'đệ nhất trí tuệ' trong Tăng-già thời Phật sinh tiền. Năm sinh và năm mất của Xá-lợi-rũ không được rõ, chỉ có tài liệu ghi ông mất vào tháng cuối của mùa mưa, năm 546 TCN. Trưởng lão Xá-lợi-rũ xuất thân từ một gia đình Bà-la-môn, là con trưởng của một gia đình thuộc thế cấp Bà la môn giàu nhất làng Upatissa, gần Nàlanda ngày nay. Upatissa cũng là tên được đặt cho ngài khi sơ sinh. Mẹ ngài tên là Sàrì. Trong bốn người con trai, ngài được mang tên của mẹ, trong khi một người em của ngài lại có tên của cha là Vagantaputra. Tôn giả có ba em trai và ba em gái, về sau đều theo ngài xuất gia đắc quả A La Hán. Những tiểu sử của các vị này đều được tìm thấy trong 'Trưởng lão tăng kệ' và 'Trưởng lão ni kệ.'
Ba người em trai của Tôn giả có tên tuần tự như sau: Cunda (Thuần đà), Upasena và Revata (Ly Bà Đa). Ba em gái của Tôn giả là Càlà, Upacàlà và Sìsùpacàlà. Ly Bà Đa là vị đệ tử thiền định đệ nhất của Phật. Vì ngài là con út, bà mẹ rất cưng quí không muốn cho xuất gia nên tìm cách cưới vợ cho ngài rất sớm. Vào ngày hôn lễ, không may cho hai gia đình, cậu bé tình cờ thấy bà ngoại già 120 tuổi của cô bé, và trực nhận lý vô thường, trong phút chốc cậu đâm ra chán ngấy tất cả cảnh hoa lệ giả dối của cuộc phù sinh, và muốn thoát ly bằng mọi giá. Được anh cả yểm trợ, cậu út chuồn ngã sau giữa lúc đám tiệc linh đình, và trực chỉ đi đến một ngôi tinh xá, xuống tóc xuất gia. Ít năm sau khi nhập đạo, vào một mùa an cư, trên đường đi bái yết Phật, tôn giả dừng chân ở một khu rừng cây Khadìra (cây gai) và tại đây ngài đắc quả, nên về sau ngài được hiệu là 'Ly Bà Đa ở rừng gai'. Ngài được Phật khen là người xuất sắc nhất trong những vị yêu thích độc cư ở núi rừng.
Em trai giữa của tôn giả là Upasena hay Vagantaputta, là vị tỳ kheo được Phật khen ngợi có hạnh hoan hỉ đệ nhất. Ngài từ trần sau khi bị rắn độc cắn, như được ghi trong một kinh của Tương ưng bộ. Người em kế ngài là Cunda (Thuần Đà) được mệnh danh là Tiểu Thuần Đa (Cula Cunda), để phân biệt với Trưởng lão Đại Thuần Đà. Khi tôn giả Xá Lợi Rũ nhập diệt, chính vị này đã hầu cận ngài và mang di vật của ngài trở về thông báo với đức Phật và Thánh chúng. Ba người em gái của tôn giả cũng xuất gia sau khi đã lập gia đình, mỗi người có một người con. Những người con trai này cũng đã theo tu học với tôn giả Ly Bà Đa. Chính tôn giả Xá Lợi Rũ, vào một dịp đến viếng thăm người em út của ngài lâm bệnh, đã gặp các cháu và khen ngợi hạnh kiểm tốt đẹp của họ, như được tìm thấy trong Trưởng lão tăng kệ 42, phần luận sớ.
Vốn trí tuệ sáng suốt từ trong bụng mẹ, từ nhỏ đã có nhiều diễn giảng, lời nói trưởng thành, sâu sắc khiến nhiều người khâm phục. Sau khi Đức Phật giác ngộ, Xá-lợi-phất cùng bạn thân Mục-kiền-liên gia nhập Tăng-già và được biết đến với danh hiệu 'Trí tuệ đệ nhất'. Khi Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả Mục Kiền Liên chứng kiến A La Hán, Đức Phật đã giao cho 2 người trọng trách lãnh đạo Tăng Đoàn. Tôn giả qua đời vài tháng trước khi Đức Phật nhập diệt. Nhiều chùa thường thấy hình tượng của Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên bên cạnh tượng Đức Phật.
Xá-lợi-phất là một người có tính nghi ngờ cao trước khi gia nhập Tăng-già. Theo kinh sách, Tôn giả trở thành đệ tử của Đức Phật sau khi gặp Tỉ-khâu A-thuyết-thị (pi. assaji). Thấy gương mặt trang nghiêm sáng ngời, phong độ thanh thoát của A-thuyết-thị, Tôn giả liền hỏi ông ta tin tưởng vào ai. A-thuyết-thị đáp lại bằng bốn câu kệ nổi tiếng, sau được gọi là 'Duyên khởi kệ':
- Nhân duyên pháp sinh
- Cũng theo nhân duyên diệt
- Pháp sinh diệt nhân duyên này
- Phật Đại sa-môn giảng.
- Các pháp nhân duyên sinh
- Cũng theo nhân duyên diệt
- Nhân duyên sinh diệt này
- Phật Đại sa-môn giảng.
Nghe xong, Xá-lợi-phất ngay lập tức giác ngộ Đạo Lý Duyên Khởi, chứng quả sơ Tu Đà Hoàn, một trong Tứ Thánh Quả. Trực nhận lập tức về lý 'Có sinh thì có diệt', rồi hai người Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên cầu xin Phật cho gia nhập Tăng-già, trở thành đệ tử của Phật Thích-Ca. Tôn giả Xá Lợi Phất chứng kiến thánh quả A-la-hán sau 4 tuần khi xuất gia. Ông đã hỗ trợ hiệu quả cho sự lan tỏa chánh pháp của Phật Tổ và được Phật ca ngợi là bậc 'Trí tuệ đệ nhất' trong Tăng đoàn. Ông nhiều lần thay mặt Phật Thích-Ca thuyết giảng cho đại chúng và hỗ trợ nhiều vị thánh tăng đạt chánh quả A-la-hán. Tôn giả Xá-lợi-phất là một vị Thượng Thủ Tăng Đoàn, đức hạnh và trí tuệ của Ngài phủ trùm khắp tăng đoàn thời ấy, Đức Phật giao cho Ngài trọng trách quản lý tăng đoàn quan trọng mà không chọn vị A La Hán khác, dù khi ấy Ngài còn rất trẻ. Ngài có nhiều diễn bài trong hệ thống kinh Nikaya, tuy nhiên những bài thuyết giảng của Ngài không được ghi chép nhiều.
Chú thích
Sách tham khảo
- Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
- Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.