Một phần của loạt bài về |
Âm nhạc Việt Nam |
---|
Âm nhạc cổ truyền |
|
Tân nhạc |
|
Giải thưởng |
|
Xẩm là một thể loại dân ca đặc sắc của Việt Nam, chủ yếu xuất hiện ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Thuật ngữ 'Xẩm' cũng dùng để chỉ các nghệ sĩ biểu diễn loại hình này. Nghệ nhân Hà Thị Cầu (1928–2013) được coi là người hát xẩm cuối cùng của thế kỷ XX, và hiện tỉnh Ninh Bình đang nỗ lực đề cử xẩm vào danh sách di sản văn hóa thế giới cần bảo vệ khẩn cấp của UNESCO.
Hát xẩm xưa chủ yếu là cách kiếm sống của người dân, còn hiện tại, nó đã được sân khấu hóa và phục vụ cho khách du lịch. Xẩm thường được biểu diễn tại các chợ, đường phố, hoặc những nơi đông người. Nghệ thuật xẩm có tính tự phát cao, và người biểu diễn có thể ứng tác ngay trên sân khấu.
Truyền thuyết về nguồn gốc
Theo các nghiên cứu, hát xẩm được hình thành vào khoảng thế kỷ XIV. Từ khi xuất hiện đến giữa thế kỷ XX, hát xẩm đã có nhiều tên gọi khác nhau như hát rong hay hát dạo. Thực chất, hát xẩm là một thể loại âm nhạc dân gian chuyên nghiệp, đặc trưng với lối diễn xướng sâu lắng, tinh tế và hấp dẫn trong kho tàng âm nhạc truyền thống của dân tộc.
Theo truyền thuyết, vua Trần Thánh Tông thời nhà Trần có hai hoàng tử là Trần Quốc Toán và Trần Quốc Đĩnh. Vì tranh giành quyền lực, Trần Quốc Đĩnh bị Trần Quốc Toán hãm hại, làm mù mắt và bỏ lại trong rừng sâu. Khi tỉnh dậy, với đôi mắt mù lòa, Trần Quốc Đĩnh chỉ biết khóc lóc và ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ, bụt hiện ra chỉ cho ông cách làm một cây đàn với dây đàn từ dây rừng và gảy bằng que nứa. Khi tỉnh dậy, ông làm theo và cây đàn phát ra âm thanh đẹp, thu hút chim chóc đến và mang hoa quả cho ông. Sau đó, những người đi rừng nghe tiếng đàn đã tìm thấy và đưa ông trở về. Trần Quốc Đĩnh dạy đàn cho người nghèo và người khiếm thị. Tiếng đàn của ông lan ra tận hoàng cung, vua nhận ra con mình và mời ông vào cung. Dù trở về cung đình, Trần Quốc Đĩnh vẫn tiếp tục mang tiếng đàn và lời ca dạy cho người dân. Hát xẩm ra đời từ đó và Trần Quốc Đĩnh được coi là tổ nghề hát xẩm cũng như hát xướng dân gian Việt Nam. Ngày 22 tháng 2 và 22 tháng 8 âm lịch được lấy làm ngày giỗ của ông. Trung tâm Phát triển Nghệ thuật Âm nhạc Việt Nam đã lập giải thưởng Trần Quốc Đĩnh nhằm tôn vinh và hỗ trợ các nghệ nhân, nhà sưu tầm, nhà nghiên cứu, nhà báo có đóng góp cho âm nhạc truyền thống, giải thưởng được trao lần đầu tiên năm 2008.
Tuy nhiên, theo chính sử, vua Trần Thánh Tông không có hoàng tử tên Đĩnh hay Toán. Thái tử của vua Thánh Tông là Khảm, sau lên ngôi thành vua Nhân Tông, và một người con khác là Tá Thiên vương. Do đó, nguồn gốc của hát xẩm có thể chỉ là truyền thuyết và không có trong chính sử.
Nhạc cụ
Bộ nhạc cụ cơ bản nhất cho hát xẩm gồm đàn nhị và sênh sứa. Khi nhóm hát xẩm đông người, có thể thêm đàn bầu, trống mảnh và phách bàn. Một số tài liệu cho rằng đàn bầu ban đầu là nhạc cụ chính của hát xẩm, nhưng vì đàn nhị dễ chơi hơn và có âm lượng lớn hơn, nên thường được sử dụng hơn trong những chỗ đông người. Thay cho đàn nhị truyền thống, có thể sử dụng đàn gáo, một phiên bản lớn hơn của đàn nhị, thích hợp cho giọng trầm. Sênh sứa (gồm hai thanh tre hoặc gỗ) và sênh tiền (có gắn đồng tiền kim loại để tạo âm thanh) được dùng để đệm nhịp cho hát xẩm. Ngoài ra, trống cơm, sáo và thanh la cũng thường xuất hiện trong các buổi biểu diễn hát xẩm.
Phân loại và làn điệu
Xẩm bao gồm hai làn điệu chính: xẩm chợ và xẩm cô đào. Xẩm chợ có điệu hát mạnh mẽ, với các tiếng đệm và đưa hơi nổi bật, thường được phối hợp với đàn bầu hoặc nhị cùng sênh phách. Ngược lại, xẩm cô đào có điệu hát dịu dàng hơn, với các tiếng đệm và đưa hơi hòa quyện vào lời hát chính, tạo âm thanh dư âm dễ chịu. Xẩm cô đào sử dụng đàn đáy và sênh phách, không dùng đàn bầu và nhị. Bên cạnh đó, xẩm còn tiếp thu nhiều làn điệu dân ca từ đồng bằng Bắc Bộ như trống quân, cò lả, hát ví, ru em, quan họ, chèo, hoặc ngâm thơ theo các điệu bồng mạc, sa mạc. Những làn điệu này khi được đưa vào xẩm đã được điều chỉnh theo phong cách xẩm đặc trưng. Trên thực tế, cách phân loại xẩm không chỉ dựa vào làn điệu mà còn theo các tiêu chí khác.
- Các bài xẩm nổi tiếng: xẩm thập ân (ca ngợi công đức cha mẹ), xẩm anh Khoá (dựa trên bài thơ hát theo điệu xẩm Tiễn chân anh Khoá xuống tàu của Á Nam Trần Tuấn Khải), Xẩm quê choa,...
- Theo mục đích, nội dung: xẩm dân vận (được khuyến khích sáng tác để tuyên truyền, vận động quần chúng)...
- Theo môi trường biểu diễn: ngoài xẩm chợ và xẩm cô đầu (hay còn gọi là xẩm nhả tơ, xẩm ba bậc, xẩm nhà trò, xẩm huê tình), còn có xẩm tàu điện của Hà Nội, thường được hát trên tàu điện.
- Theo địa phương: có xẩm Hà Nội, xẩm Ninh Bình, xẩm Hải Phòng... Miền Trung và miền Nam cũng có xẩm, tuy khác biệt so với miền Bắc. Xẩm miền Trung lấy bài bản từ ca Huế, còn miền Nam gọi là 'nói thơ' như 'nói thơ Lục Vân Tiên'.
Ca từ
Ca từ xẩm chủ yếu là thơ lục bát, hoặc lục bát biến thể với thêm các tiếng láy, tiếng đệm phù hợp với điệu xẩm. Nội dung bài xẩm có thể mang tính tự sự như kể lể, trách móc số phận; nêu gương các anh hùng, liệt sĩ hoặc châm biếm thói hư tật xấu, cũng có thể mang tính trữ tình. Những bài thơ thường được sử dụng trong hát xẩm bao gồm các tác phẩm của Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Nguyễn Bính...
Nghệ thuật hát xẩm được xếp vào thể loại 'trung ca' cùng với hát chèo, trong khi tuồng thuộc 'võ ca' và ca trù là 'văn ca'. Danh xưng 'trung ca' có thể xuất phát từ nội dung thường nhấn mạnh sự trung thực, hiếu nghĩa, hoặc do phong cách biểu diễn không quá mạnh mẽ và học thuật, mà chú trọng vào sự hòa quyện với khả năng của người hát.
Hát xẩm ngày nay
Kể từ khi ra đời đến giữa thế kỷ XX, hát xẩm đã trở thành nghề của nhiều người khiếm thị, họ thường hành nghề tại các bến đò, chợ búa hoặc lang thang trên các nẻo đường. Họ thành lập các phường hội để truyền nghề và hỗ trợ nhau trong cuộc sống. Cuối năm 1954 và đầu 1955, nhằm đối phó với việc di cư của người dân miền Bắc vào miền Nam sau Hiệp định Genève, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tập hợp nhiều nhóm hát xẩm từ các vùng như Thái Bình, Ninh Bình, Nam Định, Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Nội, để biểu diễn tại các vùng duyên hải phía Bắc nhằm vận động không di cư. Sau đó, khi Hội Người mù được thành lập, các nghệ nhân xẩm được đào tạo nghề thủ công mới, khiến hát xẩm dần bị lãng quên. Hiện nay, hát xẩm chỉ xuất hiện hiếm hoi trên sóng phát thanh hoặc sân khấu như một tiết mục văn nghệ do các diễn viên chuyên nghiệp trình diễn, không còn tồn tại với hình thức xã hội truyền thống. Gần đây, nhờ vào công tác sưu tầm và bảo tồn, những nghệ nhân hiếm hoi như bà Hà Thị Cầu đã truyền lại nghệ thuật này cho thế hệ sau. Ngày 29 tháng 3 năm 2008 (22 tháng 2 âm lịch), lễ giỗ tổ nghề hát xẩm đã được phục hồi và tổ chức trang trọng tại Quốc Tử Giám, Hà Nội. Hiện nay, các nghệ sĩ như Xuân Hoạch, Văn Ty, Thanh Ngoan, Đoàn Thanh Bình thường tổ chức biểu diễn hát xẩm vào tối thứ 7 hàng tuần trước cổng chợ Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, nhằm chuẩn bị cho kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Đề cử hát xẩm là di sản thế giới
Ngày 26/11/2011, Nhà hát Chèo Ninh Bình đã khai trương dự án khôi phục, bảo tồn và phát triển nghệ thuật hát xẩm, nhằm sưu tầm, biên soạn, truyền dạy và phổ biến các bài hát xẩm theo làn điệu cổ truyền. Dự án này bao gồm việc dàn dựng chương trình hát xẩm, bảo tồn và phát triển nghệ thuật xẩm. Các nghệ sĩ đã thu thập và biên soạn các bài hát xẩm cổ, trực tiếp truyền dạy cho các diễn viên và nhạc công tại Nhà hát Chèo Ninh Bình và các diễn viên quần chúng ở xã Yên Phong (Yên Mô), quê hương của nghệ nhân Hà Thị Cầu. Theo kế hoạch, đến tháng 12/2011, dự án sẽ được báo cáo với lãnh đạo tỉnh Ninh Bình và dự kiến sẽ là bước đệm để trình UNESCO công nhận hát xẩm là Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới.
Liên hoan hát Xẩm các tỉnh phía Bắc - Ninh Bình năm 2019 diễn ra từ 3-5/12/2019 tại Trung tâm hội nghị tỉnh Ninh Bình, với sự tham gia của các nghệ nhân và nghệ sĩ từ 15 câu lạc bộ hát Xẩm ở các tỉnh, thành phố như Hà Nội, TP HCM, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An. Ban tổ chức dự định tạo điều kiện để làm hồ sơ trình UNESCO công nhận hát xẩm là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Trong khuôn khổ Năm Du lịch quốc gia 2021 do Ninh Bình đăng cai, Hội thảo Quốc tế về Nghệ thuật hát Xẩm đã được tổ chức vào ngày 7/12/2021. Đây là một bước quan trọng trong việc đề nghị UNESCO công nhận hát xẩm là di sản văn hóa thế giới phi vật thể.
Vào tháng 1/2022, hát Xẩm tại các huyện Yên Mô, Kim Sơn và thành phố Ninh Bình thuộc tỉnh Ninh Bình đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Những nghệ nhân, nhà nghiên cứu
- Nghệ nhân hát xẩm: NSƯT Hà Thị Cầu (Ninh Bình), được biết đến là 'Người hát Xẩm cuối cùng của thế kỷ XX'.
- Các nghệ nhân cao tuổi như: Vũ Đức Sắc (Hà Nội), Thân Đức Chinh (Bắc Giang), Nguyễn Văn Khôi (Hà Nội), Minh Sen, Tô Quốc Phương (Thanh Hóa)... Những nghệ nhân đã qua đời gồm: Trùm Khoản (Sơn Tây), Chánh Trương Mậu (Ninh Bình – chồng nghệ nhân Hà Thị Cầu), Đào Thị Mận (Hưng Yên).
- Nhà nghiên cứu: Vũ Ngọc Phan, Trần Văn Khê, Trần Việt Ngữ, Hoàng Kiều, Thao Giang...
- Nghệ sĩ nhân dân Xuân Hoạch, Nghệ sĩ nhân dân Thanh Ngoan, Nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa, Nghệ sĩ nhân dân Mai Thủy, Nghệ sĩ nhân dân Thúy Ngần.
- Nghệ sĩ Dương Ngọc Thành Tài (Tài Dương).
Các câu lạc bộ hát Xẩm
Một số câu lạc bộ hát Xẩm nổi bật bao gồm:
- Câu lạc bộ hát Xẩm Hà Thành (Hà Nội)
- Câu lạc bộ hát Xẩm Hải Thành (Hải Phòng)
- Câu lạc bộ hát Xẩm chợ Đồng Xuân (Hà Nội)
- Câu lạc bộ hát Xẩm Yên Nhân (Yên Mô, Ninh Bình)
- Câu lạc bộ hát Xẩm xã Yên Phong (Yên Mô, Ninh Bình)
- Cùng với một số CLB hát Xẩm tại Quảng Ninh, Nam Định, Vĩnh Phúc, Thái Bình, Thanh Hóa
- Ca trù
- Chèo
- Hát xoan
- Hát bội
- Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ, Ca dao, Dân ca Việt Nam (15th Edition, Revised and Expanded), Nhà xuất bản Văn học 2007.
- Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, 2005.
Liên kết tham khảo
- Khởi công dự án khôi phục, bảo tồn và phát triển nghệ thuật hát Xẩm
- Hát Xẩm: Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp
- Nghệ sĩ nhân dân Hà Thị Cầu - người cuối cùng của nghệ thuật hát Xẩm
- Xẩm Việt - Khám phá chân dung văn hóa gốc Lưu trữ 2011-01-01 tại Wayback Machine, Báo cinet của Bộ VHTTDL tổng hợp
Âm nhạc cổ truyền của người Kinh | |
---|---|
Dân ca Việt Nam | |
|