Ác là | |
---|---|
Âm thanh của ác là | |
Tình trạng bảo tồn | |
Ít quan tâm (IUCN 3.1) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Aves |
Bộ (ordo) | Passeriformes |
Họ (familia) | Corvidae |
Chi (genus) | Pica |
Loài (species) | P. pica |
Danh pháp hai phần | |
Pica pica Linnaeus, (1758) | |
Khu vực phân bố của các chủng ác là
Pica pica hudsonia
Pica pica melanotos
Pica pica galliae
Pica pica germanica
Pica pica pica
Pica pica fennorum
Pica pica asirensis
Pica pica bactriana
Pica pica hemileucoptera
Pica pica leucoptera
Pica pica jankowskii'
Pica pica sericea
Pica pica battnensis
Pica pica kamschatisa |
Xấu xa, bồ các, ác xắc, hỉ thước, xấu xa châu Âu (danh pháp hai phần: Pica pica) là loài chim sống chủ yếu ở châu Âu, phần lớn châu Á và tây bắc châu Phi. Đây là một trong những loài chim thuộc họ Quạ (Corvidae) với tên gọi chung là xấu xa, thuộc nhánh phân tỏa gần Bắc cực của xấu xa 'đơn sắc'.
Trước phiên bản 8.2, Ủy ban điểu học Quốc tế (IOC) đã coi Pica pica bao gồm cả Pica asirensis, Pica mauritanica, Pica serica và Pica bottanensis, do đó tại Việt Nam, Pica pica là loài duy nhất của chi Pica xuất hiện. Tuy nhiên, từ phiên bản 8.2, IOC đã tách các loài này ra khỏi Pica pica, vì vậy loài hiện diện tại Việt Nam được liệt kê dưới danh pháp Pica serica và cụm từ 'xấu xa' giờ đây chỉ dành riêng cho loài này.
Miêu tả và phân loại
Xấu xa có chiều dài khoảng 40–51 cm. Đầu, cổ và ngực có màu đen bóng với ánh kim loại xanh lục và tím, bụng và vai màu trắng; hai cánh đen với ánh màu xanh lục đậm hoặc tía, các lông cánh có tơ trắng lộ ra khi cánh dang rộng. Đuôi rộng dần, màu đen với các đốm xanh lục-vàng đồng hoặc các sắc màu khác. Chân và mỏ màu đen.
Chim non có bộ lông giống như chim trưởng thành nhưng không bóng bằng. Xấu xa đực thường lớn hơn một chút so với xấu xa cái.
Loài này có nhiều phân loài. Phân loài ở tây bắc châu Phi có mảng da trần quanh mắt và không có mảng trắng trên phao câu; phân loài ở tây nam bán đảo Ả Rập nhỏ hơn, với bộ lông đen xỉn và ít màu sắc hơn, chỉ có màu trắng tối thiểu ở cánh. Phân loài Siberia có nhiều màu trắng trên cánh và ngũ sắc xanh lục rực rỡ; phân loài ở Triều Tiên có ánh màu tía và cánh dài hơn nhưng đuôi lại ngắn hơn.
Phân tích mtDNA cho thấy phân loài ở Triều Tiên, P. pica serica, có sự khác biệt rõ rệt so với các dạng khác của loài xấu xa và có thể là loài riêng biệt. Xấu xa mỏ đen (Pica hudsonia) ở Bắc Mỹ có hình dạng gần giống với dạng Á-Âu của xấu xa nhưng về mặt di truyền lại gần với xấu xa mỏ vàng (Pica nuttalli) hơn. Các phân loài chính ở Á-Âu của loài này vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ để xác định tình trạng của chúng, ví dụ như phân loài ở tây bắc châu Phi (P. p. mauritanica) và phân loài ở tây nam bán đảo Ả Rập (P. p. asirensis) có thể là các loài khác biệt.
Phân loài lớn hơn của xấu xa được gọi bằng tên khoa học Pica pica major.
Gần đây, dựa trên các nghiên cứu phân tử về nguồn gốc loài, IOC đã công nhận Pica asirensis, Pica mauritanica, Pica serica và Pica bottanensis là các loài riêng biệt so với Pica pica.
Phân bố chi tiết như sau:
- Pica pica Linnaeus, 1758: Miền bắc Á-Âu, từ đảo Anh và tây bắc châu Âu tới đông Siberia.
- P. p. fennorum Lönnberg, 1927: Bắc Scandinavia và tây bắc Nga.
- P. p. pica (Linnaeus, 1758): Đảo Anh và nam Scandinavia đến Đông Âu và Tiểu Á.
- P. p. melanotos Brehm A.E., 1857: Bán đảo Iberia.
- P. p. bactriana Bonaparte, 1850: Trung Nga đến Iran, bắc Ấn Độ và Mông Cổ, tây và nam Siberia. Phân loài này bao gồm cả chủng hemileucoptera.
- P. p. leucoptera Gould, 1862: Đông nam Siberia, Mông Cổ và đông bắc Trung Quốc.
- P. p. camtschatica Stejneger, 1884: Bán đảo Kamchatka (đông bắc Siberia).
- Pica mauritanica Malherbe, 1845: Tây bắc châu Phi. Được tách ra từ P. pica theo Lee et al. (2003) và Song et al. (2018).
- Pica asirensis Bates, 1936: Tây nam Saudi Arabia. Được tách ra từ P. pica theo Lee et al. (2003) và Song et al. (2018).
- Pica bottanensis Delessert, 1840: Trung Bhutan, tây nam Trung Quốc. Được tách ra từ P. pica theo Lee et al. (2003) và Song et al. (2018).
- Pica serica Gould, 1845: Đông nam Nga, Myanmar đến đông Trung Quốc, Đài Loan và bắc Đông Dương. Được tách ra từ P. pica theo Lee et al. (2003) và Song et al. (2018).
- P. s. serica Gould, 1845: Bắc Myanmar đến đông Trung Quốc, Đài Loan và bắc Đông Dương.
- P. s. anderssoni Lönnberg, 1923: Đông nam Nga, cực đông bắc Trung Quốc và Triều Tiên.
Những đặc điểm sinh thái và hành vi
Bộ lông dài và rực rỡ (20–30 cm), đuôi xòe rộng dần, và tiếng kêu to rõ ràng là những yếu tố khiến ác là dễ nhận diện. Trong các khu vực nông thôn ít cây cối, ác là thường gây sự chú ý vì thường bay theo nhóm từ một đến ba con hoặc nhiều hơn, với các chuyển động nhanh, dường như với cánh ngắn, bay nối tiếp nhau và phát ra tiếng kêu ríu rít khi bay qua. Khi hạ cánh, đuôi dài của chúng ngay lập tức dựng đứng để không chạm đất.
Như các loài chim trong họ quạ khác, ác là thường đi bộ, nhưng khi bị thu hút bởi thức ăn hoặc vật thể đặc biệt, chúng sẽ nhảy nhanh sang bên với các cánh hơi dang ra. Chim ác là nổi tiếng với sự ưa thích và tò mò đối với các vật thể sáng màu, hành vi này chính là nguồn cảm hứng cho vở opera La gazza ladra ('Chim ác là ăn cắp').
Không có loại thực phẩm động vật nào mà ác là từ chối; từ chim non, trứng, thú nhỏ đến sâu bọ đều được chúng ăn ngấu nghiến, nhưng quả sồi, hạt ngũ cốc và các thực phẩm thực vật khác cũng không bị bỏ qua.
Trong các khu vực nông thôn, ác là thường ít xuất hiện do bị xua đuổi, nhưng tại các khu vực gần gũi với thành phố, chúng lại khá phổ biến. Trên thực tế, khi không bị làm phiền, chúng có xu hướng tiếp cận khu vực có con người thay vì tránh xa. Thậm chí, chúng còn tụ tập thành nhóm từ hai con trở lên để 'khiêu khích' mèo, nghĩa là thực hiện các cuộc tấn công giả vờ vào con vật, có thể là phản ứng chung để chống lại mèo như là kẻ săn mồi và kẻ trộm trứng.
Vào mùa đông, ác là thường sống thành bầy nhỏ, di chuyển tìm kiếm thức ăn và tụ tập lại để ngủ qua đêm. Chúng cũng tụ tập thành nhóm lớn để tìm bạn đời vào đầu năm. Charles Darwin mô tả hiện tượng này là 'hội nghị hôn nhân'.
Có quan sát cho thấy ác là có thể xua đuổi và tấn công những con chim nhỏ khác khi bay, một hành vi thường thấy ở các loài chim săn mồi.
Sinh sản
Ác là là loài chim chiếm giữ lãnh thổ và duy trì sự hiện diện trong khu vực đó suốt cả năm, ngay cả ở các vùng phía bắc nơi loài này phân bố. Các cặp ác là kết đôi theo chế độ một vợ một chồng và sống cùng nhau suốt đời; tuy nhiên, nếu một trong hai con chết, con còn lại sẽ tìm bạn tình mới trong số những con chim chưa đủ tuổi trưởng thành.
Giao phối diễn ra vào mùa xuân, khi các con đực thể hiện sự tán tỉnh bằng cách nhanh chóng nâng lên và hạ xuống lông đầu, đồng thời dựng đứng và xòe đuôi giống như một chiếc quạt. Chúng phát ra âm thanh mềm mại khác hẳn với tiếng kêu khàn khàn thông thường. Trong khi đó, lông mềm ở hai bên hông được nâng lên, các lông bay chính và các đốm trên vai được trải rộng để làm nổi bật màu trắng, có thể nhằm thu hút con mái. Các đường bay ngắn và những pha săn đuổi cũng là phần của màn ve vãn.
Ác là thường chọn những cây cao để xây tổ lớn, gắn chắc vào chạc cây của các cành cao. Tổ được làm từ các que củi liên kết bằng đất sét và lót bằng vật liệu tương tự, được che phủ bằng các rễ mịn; các cành lớn, đầy gai tạo thành vòm với lối vào được che chắn kỹ lưỡng. Khi lá rụng, các tổ này trở nên dễ thấy. Trong trường hợp cây thưa thớt hoặc có nhiều cây, tổ cũng có thể được làm trong bụi rậm hoặc hàng rào.
Chim ác là đẻ từ 5 đến 8 trứng nhỏ (có thể lên đến 10 như đã ghi nhận), thường có màu lục-lam với các đốm xám hoặc nâu. Chúng đẻ trứng vào tháng 4 và chỉ nuôi một lứa trứng, trừ khi có thảm họa xảy ra với lứa đầu tiên.
Trong văn hóa
Ác là thường xuất hiện trong văn hóa dân gian châu Âu với nhiều tín ngưỡng mê tín. Loài chim này thường gắn liền với điềm xui và sự bất hạnh, có thể do thói quen 'trộm cắp' các vật thể sáng bóng cùng với tiếng kêu khàn khàn của chúng. Ví dụ, ở Scotland, việc ác là xuất hiện gần cửa sổ nhà được coi là điềm báo cái chết, còn trong văn hóa dân gian Đức, ác là được xem như kẻ trộm.
Tại Trung Quốc, ác là không chỉ không phải là biểu tượng của sự xui xẻo mà còn được xem là một dấu hiệu của sự may mắn. Tên gọi của loài chim này trong tiếng Trung (喜鹊: hỉ thước) mang ý nghĩa là chim báo điềm lành.
Tên gọi chim khách
Từ điển Việt–Bồ–La (1651) ghi chép rằng 'bò, chim bò các: pega: pica, æ.' và 'khách, chim khách: pega: pica, æ. bò các, idem.' nhưng không thấy đề cập đến tên gọi 'ác là', mà chỉ có 'ác quạ' với ghi chú 'ác quạ, cái ác: coruo: coruus, i. ác mỗ, dai ác: os coruos te comão: corui te rodant, maledictum.' Do đó, khoảng năm 1650, 'chim khách' và 'bò các' là các tên gọi khác nhau cho cùng một loài chim, có tên Latinh là pica.
Đại Nam quấc âm tự vị (1895-1896) mô tả tên gọi 'ác là' trong mục từ ác (鵶) như 'Một loại quạ nhỏ, phát ra tiếng kêu chát chúa', và 'chim khách' trong mục từ khách (客) như 'Loài chim đen, đuôi dài, nhỏ hơn tu hú, thường được coi là báo hiệu có khách đến, vì vậy gọi là chim khách, tên cũng xuất phát từ tiếng kêu của nó.' Trong mục từ thước (鵲), định nghĩa 'Thước (鵲). Con ác là. Chim thước: id. Ô thước: Quạ quạ, ác là. Giá thước kiều ngưu nữ độ hà (駕鵲橋牛女渡河): Bắc cầu ô cho sao Ngưu sao Nữ qua sông giang hà. Truyền thuyết nói đêm mồng bảy tháng bảy, quạ xây cầu cho hai vì sao đó gặp nhau, và tháng ấy quạ rụng lông đầu là do xây cầu.' Ở đây, 'chim thước', 'ô thước', 'quạ quạ' và 'ác là' đều gắn liền với sự tích Ngưu Lang - Chức Nữ, nhưng 'chim khách' có thể không phải là 'ác là'. Đại Nam quấc âm tự vị không nhắc đến tên gọi 'bồ các'.
Từ điển Việt-Nam Tự-điển (1931) định nghĩa các từ 'ác là', 'bồ các', 'chim khách' và 'chim thước' như sau:
- Ác là: Chim bồ các hoặc chim khách.
- Bồ các: Loài chim với lông đen và đốm trắng ở ngực.
- Khách (客). Khách. Tên của một loài chim có ngoại hình tương tự như chim chèo bẻo, với lông đen và đuôi dài. Đây chính là chim thước. Theo tục lệ, tiếng kêu của chim này thường được coi là dấu hiệu có khách đến, vì vậy nó được gọi là chim khách.
- Thước (鵲). Chim khách. Ngoài rèm thước chẳng mách tin (Chinh phụ ngâm).
Theo Việt-Nam Tự-điển của hội Khai Trí Tiến Đức, 'chim khách' và 'chim thước' được coi là cùng một loài, trong khi 'ác là' được xác định là 'chim bồ các' hoặc 'chim khách'. Tuy nhiên, không rõ ràng liệu 'chim bồ các' và 'chim khách' có phải là một hay không.
Danh lục chim Việt Nam (1995) và Danh lục các loài chim ở Việt Nam (2009) sử dụng các tên gọi ác là, ác xắc, bồ các để chỉ Pica pica, nhưng 'chim khách' lại được dùng để chỉ loài khác. Cụ thể, tên gọi chim khách dành cho Crypsirina temia, trong khi tên gọi chim khách đuôi cờ dành cho Temnurus temnurus.
- Madge Steve & Burn Hilary (1994): Crows and jays: a guide to the crows, jays and magpies of the world A&C Black, London. ISBN 0-7136-3999-7
Liên kết ngoài
- Video về ác là có thể xem tại Lưu trữ ngày 08-12-2012 trên Archive.today thuộc Internet Bird Collection.
- Thông tin trên Avibase có thể xem tại Lưu trữ ngày 29-09-2007 trên Wayback Machine.
- Tài liệu Ageing and sexing (PDF) của Javier Blasco-Zumeta có thể xem tại Lưu trữ ngày 18-09-2011 trên Wayback Machine.
Các loài động vật có tình trạng đang bị đe dọa tuyệt chủng ở Việt Nam |
---|