Xe buýt là thuật ngữ tiếng Việt chỉ xe ba bánh, một loại phương tiện giao thông công cộng phổ biến tại Việt Nam, đặc biệt là ở miền Nam từ những năm 1960, phục vụ cho công nhân lao động. Thuật ngữ xe buýt xuất hiện từ thời đó, liên quan đến kiểu Lambro thuộc hãng Lambretta sản xuất ở Ý. Sau này, người dân đã tự chế xe này với các động cơ nhập khẩu hoặc từ các loại xe máy khác.
Đây là loại xe khách hoặc vận chuyển hàng hóa có cấu trúc tương tự như xe tuktuk, vẫn là phương tiện giao thông phổ biến tại một số quốc gia trên thế giới như Sudan, Bangladesh, Ấn Độ, Lào, Thái Lan, Campuchia,...
Bản miêu tả
Xe ba bánh là loại xe nhỏ có thùng hàng phía sau, có 3 bánh, có cabin cho người lái phía trước và một thùng để chở khách hoặc hàng hóa phía sau, có thể chở từ 8 đến 10 người. Có một bánh xe phía trước để người lái có thể điều khiển để quẹo trái hoặc phải, hai bánh sau mang phần thùng xe. Dưới ghế ngồi của người lái là thùng đặt máy.
Tên gọi xe ba bánh có nguồn gốc từ các dòng xe 3 bánh của Lambretta FD (dung tích xy lanh 123 và 150 cc), FLI (175 cc) và sau đó là Lambro 200, 550 (đều có dung tích 198 cc) do công ty cơ giới Innocenti sản xuất. Các dòng xe này được nhập khẩu vào Việt Nam Cộng hòa vào giữa những năm 1960 để thay thế cho xe thổ mộ vẫn còn được sử dụng vào thời điểm đó. Những chiếc xe này được nhập khẩu dưới dạng không có thùng và sau đó được lắp thùng tùy vào mục đích vận chuyển người hoặc hàng hóa khi đã nhập khẩu vào nước. Ngoài ra, một số xe có kiểu dáng tương tự nhưng thuộc các hãng khác (như Vespa của hãng Piaggio, Ý,...), ít phổ biến hơn, cũng được gọi là
Lưu thông
Vào khoảng năm 1966-1967, chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã triển khai một chương trình được gọi là 'Hữu sản hóa' nhằm cung cấp phương tiện công cộng cho lao động cần việc làm và để cải thiện cuộc sống của thợ thuyền, người nghèo, đồng thời phát triển hạ tầng vận tải, bao gồm cả việc cho vay vốn và trả góp để mua taxi và xe lam để làm nghề.
Giá của một chiếc xe lam vào thập niên 1960 tại Sài Gòn khoảng 30 cây vàng nhưng mang lại lợi nhuận lớn cho chủ xe (theo lời một chủ xe: 'Chạy một ngày, ăn cả tháng chưa hết'). Số lượng xe lam tại Sài Gòn vào đầu thập niên 1960 là 2.300 chiếc, và tăng lên 4.000 chiếc vào thập niên 1970.
Sau khi thống nhất vào năm 1975, khi các phương tiện cơ giới khác bị thiếu xăng hoặc thiếu phụ tùng thay thế không thể sử dụng được, xe lam trở thành phương tiện phổ biến và rẻ tiền, đi vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ. Tại thị xã Biên Hòa, chỉ có 6 hợp tác xã xe lam với khoảng 1.000 chiếc xe chính thức đăng ký vận chuyển khách, phục vụ hàng triệu lượt khách mỗi năm, khiến Biên Hòa được biết đến như 'thủ đô của xe lam'. Sau này, xe lam lan rộng và phổ biến ra cả miền Bắc Việt Nam, kéo dài đến thế kỷ 21.
Tại Việt Nam, từ năm 2004, sau khi ban hành Nghị định 23/2004/NĐ-CP (quy định về niên hạn sử dụng đối với các loại xe tải và xe chở người tham gia giao thông trên đường bộ), xe lam bị hạn chế và dần dần bị cấm hoàn toàn.
Xe lam vẫn tồn tại như một phương tiện công cộng ở Thành phố Hồ Chí Minh dưới dạng xe buýt 12 chỗ Dasu cho một số tuyến đường nhỏ và hẹp, dần được thay thế bởi các xe lớn hơn. Đến năm 2020, vẫn còn 10 chiếc xe lam Dasu của tuyến 37 (đi từ cảng quận 4 đến Nhà Bè) vẫn hoạt động do tuyến đường còn nhiều cầu sắt nhỏ.
Xe lam cũng xuất hiện trong âm nhạc, như bài Chuyến xe lam chiều của Vinh Sử, với câu:
- ...Trên chuyến xe lam đông người chiều nay
- Nghe từng cô đơn nỗi niềm chua cay
- Còn đâu một chuyến xe lam
- Ngày xưa mơ ước vô vàn
- Nay kỷ niệm em một mình mang