1. Bài mẫu số 1
2. Bài mẫu số 2
3. Bài mẫu số 3
4. Bài mẫu số 4
5. Bài mẫu số 5
6. Bài mẫu số 6
Đề bài: Phản ánh cảm nghĩ về bài thơ Đồng chí
6 bài văn mẫu Phân tích bài thơ Đồng chí
1. Nhận định về bài Đồng chí, mẫu 1:
'Đồng chí' là tác phẩm xuất sắc của Chính Hữu, mô tả hình ảnh người nông dân khoác áo lính trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp. Viết vào đầu xuân 1948 sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, bài thơ đã trải qua nửa thế kỷ, làm sáng tạo hóa tâm hồn của một chiến sĩ chiến tranh.
Hai mươi dòng thơ, ngôn ngữ giản dị, tình cảm chất chứa, hình ảnh thơ sáng tạo, một số câu thơ để lại ấn tượng sâu sắc với độc giả hiện đại.
Châm ngôn 'Đồng bào' tôn vinh tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái giữa những anh em cùng chiến đấu, san sinh từ những nỗ lực không ngừng của đội ngũ lính Cụ Hồ, những người con nông dân yêu nước, đã dấn thân vào cuộc chiến tranh chống Pháp khó khăn trong những năm đầu tiên của cuộc kháng chiến (1946-1954).
Hai dòng thơ đầu tiên tạo nên một cấu trúc đối xứng, như đang kể chuyện của hai 'người bạn' trẻ tuổi. Ngôn từ thể hiện tâm tư của một tình bạn thân thiết:
'Quê hương ta biển mặn, cánh đồng chua,
Làng mình nghèo, đất mẹ gặp nhiều đá trở.'
Quê hương của tôi và làng quê đều trải qua những khó khăn, là nơi 'biển mặn, cánh đồng chua', là xứ sở 'đất mẹ gặp nhiều đá trở'. Sử dụng ngôn ngữ dân dụ, lời thơ của Chính Hữu trở nên đơn giản, mộc mạc, gần gũi như tâm hồn người đàn ông cày ruộng chiến đấu. Sự hiểu biết, đồng lòng và cảm thông là nền tảng, là cội nguồn tạo nên tình bạn, tình đồng chí vững bền sau này.
Bài văn mẫu Đánh Giặc - Một Cảm Nhận Về Bài Thơ 'Đồng Chí' của Chính Hữu
Những dòng thơ kế tiếp kể về một hành trình tình cảm: từ 'hai người xa lạ' trở thành 'đôi tri kỉ', cuối cùng hóa thân thành 'đồng chí'. Câu thơ lắt léo, từ 7, 8 từ giảm xuống chỉ còn 2 từ, làm cho cảm xúc co lại như một nút thắt chặt. Ngày đầu tiên đứng dưới lá cờ quân kì: 'Tôi và anh, đôi người xa lạ - Từ phương trời đến, hẹn chẳng thể bỏ qua'. Mối gắn bó của đôi bạn được xây dựng qua những kí ức đẹp:
'Súng gần súng, đầu sát cùng đầu,
Đêm lạnh chung chăn, nở hoa đôi tri kỉ
Đồng chí!'
'Súng gần súng' diễn đạt một cách sâu sắc, hình ảnh: cùng nhau theo đuổi ý chí chiến đấu; 'tôi và anh' chung tay ra trận bảo vệ đất nước, vì sự độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. 'Đầu sát cùng đầu' là hình ảnh thể hiện sự gắn bó tình cảm của đôi bạn tri kỉ. Câu thơ 'Đêm lạnh chung chăn, nở hoa đôi tri kỉ' là một biểu hiện tuyệt vời và đầy cảm xúc, đánh dấu những kỷ niệm đầy khó khăn. Chia sẻ niềm vui và nỗi buồn để tạo nên 'đôi tri kỉ'. 'Đôi tri kỉ' là mối quan hệ thân thiết, biết đến nhau hơn cả bản thân. Chiến đấu cùng nhau thành 'tri kỉ', sau đó trở thành 'đồng chí'! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút gọn thành hai từ 'đồng chí' để thể hiện niềm tự hào và xúc động ngập tràn. Xúc động khi nhớ về mối tình đẹp. Tự hào về tình bạn cao quý và thiêng liêng, cùng với ý chí chiến đấu chung của những người lính, những người trải qua những khó khăn. Các từ ngữ sử dụng trong vần thơ: gần, sát, chung, thành - là biểu hiện rõ nét của sự kết nối sâu sắc trong mối quan hệ tri kỉ, đồng chí. Chiếc chăn mỏng ấm áp của tình tri kỉ, tình đồng chí mãi mãi là kỷ niệm đẹp không thể nào quên:
'Núi cao hùng vĩ bên rừng sâu
Đội quân vững bước, hòa bình đâu?
Mưa chiều buồn lạc vương nơi đây
Khắc sâu hồn quê, gió lạnh kề bên
Ngày đầu rét buốt, tình Việt Bắc...'
('Dòng Sông Đòi Mưa' - Tâm Thâm)
Ba câu thơ tiếp, với hai đồng chí chung nỗi nhớ:
Nhớ đồng ruộng, nhớ người cày, nhớ những buổi chiều,
Nhớ ngôi nhà thân thương, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh hòa quyện tình quê đan xen:
'Đồng ruộng xanh mướt, người cày hiệp sức,
Ngôi nhà bình yên gió đưa mát lạnh,
Giếng nước, gốc đa, ký ức lính chiến.'
'Gốc đa, giếng nước, ký ức làng quê, như câu ca dao xưa vẫn reo rắt: 'Cây đa cũ, bến đò xưa... Gốc đa, giếng nước, sân đình...'. Chính Hữu nâng tầm hình ảnh này trong thơ, kể về đêm dài theo dõi bóng anh trai cày ra trận, thấm đẫm và sâu sắc.'
'Người lính đêm ngày ôm ấp nỗi nhớ quê hương. Cảm xúc hai phía chân trời, tình yêu quê hương là nguồn động viên mạnh mẽ cho tinh thần lính vượt qua khó khăn. Trong 'Bao giờ trở lại', Hoàng Trung Thông viết về sự nhớ nhung khi xa nhà, những lời thề giữ quê như làn gió dẫn dắt.'
'Nhấn tay đếch tính buổi anh bước,
Mẹ vẫn lo lắng, khi nào trở về?
Lúa xanh chân đê dáng mộc,
Chiến sĩ đi để giữ quê hương mình.
Cây đa, bến nước, sân đình,
Thề nguyền nhớ mãi giữa đêm lên đường.
Hương cau ngát, làn sương lạnh,
Anh đi với tình yêu đong đầy.'
'Bảy câu thơ tiếp, chi tiết đời sống kháng chiến: 80 năm chịu ách thống trị, nhân dân nỗ lực giành lại tự do. Với gậy tầm vông, giáo mác,... dân ta chống lại xe tăng, đại bác giặc Pháp. Ngày đầu kháng chiến, quân dân phải vượt qua khó khăn: thiếu vũ khí, quân trang, lương thực, thuốc men,... Lính 'áo vải chân không đi lùng giặc', rách tả tơi, ốm đau, sốt rét rừng, 'Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi''.
'Tôi và anh, đêm gió lạnh tê buốt,
Sốt run cơ thể, trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách những nếp vai
Quần tôi vá mảnh li ti.
Nụ cười buốt lạnh, chân không giày...'
Chữ 'biết' trong bài thơ nghĩa là hiểu rõ, đồng chíng cùng chịu đựng những khó khăn. Câu thơ kết nối tôi và anh, áo anh và quần tôi, tạo nên sự gắn kết mạnh mẽ. Dòng thơ 4 tiếng tạo ra sự tương phản: 'Miệng cười buốt giá', thể hiện tinh thần lạc quan giữa đồng đội. Thơ kể về tình thương, sự đoàn kết trong gian khổ: 'Thương nhau tay nắm chặt bàn tay'. Nắm tay nhau, truyền động viên và yêu thương, vượt qua mọi thách thức, 'đi tới và tạo nên chiến thắng'.
Cuối bài thơ mô tả hình ảnh hai chiến sĩ - hai đồng chí trên chiến trường, chờ đợi giặc tới. Chiến trường là rừng sương muối hoang sơ, đêm đông lạnh lẽo giữa núi rừng chiến khu. Trong căng thẳng 'chờ đợi giặc', hai chiến sĩ vẫn 'đứng bên nhau', đồng lòng vào sinh ra tử. Bức tranh đêm trăng trên chiến khu xuất hiện đẹp như một tứ thơ không ngờ:
'Súng đầu trăng soi sáng'.
Chiến sĩ trên đường ra trận, 'ánh sao đầu súng như đèn mũ nan'. Người lính phục kích giữa đêm đông 'rừng hoang sương muối' thấy 'đầu súng trăng treo'. Cảnh thực mộng, trăng tà lơ lửng trên đầu súng như treo lên trời. Vầng trăng là biểu tượng của vẻ đẹp đất nước thanh bình. Súng đại diện cho cuộc chiến gian khổ. 'Đấu súng trăng treo' là hình ảnh tuyệt vời, nói lên tinh thần lạc quan giữa gian nan chiến đấu, tình đồng chí còn chặt chẽ hơn, và họ mơ ước cho một tương lai thanh bình. Hình ảnh 'Đầu súng trăng treo' là sáng tạo thi ca của thơ kháng chiến, Chính Hữu chọn nó làm tên cho tập thơ - Đóa hoa đầu mùa của mình. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi ngàn chiến khu, trăng lung linh trong màn sương huyền bí. Trong chiến trường tĩnh lặng, trăng làm nổi bật sự chờ đợi 'chờ giặc tới'. Mọi khó khăn của trận đánh nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền bí, thơ mộng của vầng trăng, và đồng thời là vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng của tình đồng chí, tình chiến đấu.
Bài thơ 'Đồng chí' vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi miêu tả đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa có vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi đề cập đến tình đồng chí của các anh - những người lính trẻ trong giai đoạn kháng chiến đầu tiên.
Ngôn ngữ thơ đậm chất quân đội, mộc mạc như lời tâm tình của người lính. Ca dao, tục ngữ được Chính Hữu linh hoạt sử dụng, tạo nên thơ có chất dung dị, hồn nhiên và sâu sắc. Sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn tạo nên hồn thơ chiến sĩ.
'Đồng chí' là bức tranh thơ độc đáo về anh bộ đội Cụ Hồ - người nông dân mặc áo lính, những anh hùng áo vải trong thời kỳ Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng đài cho chiến sĩ trẻ, mộc mạc và bình dị, vinh quang và thiêng liêng.
""""--KẾT THÚC PHẦN 1"""""-
Ngoài việc phân tích Cảm nhận về bài thơ Đồng chí, học sinh cần đào sâu vào các tác phẩm khác trong chương trình Ngữ Văn lớp 9 như Ý kiến cá nhân về đoạn kết bài thơ Đồng chí hoặc Đánh giá nghệ thuật trong bài thơ Đồng chí để củng cố kiến thức.
2. Bài văn Đánh giá về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, mẫu 2:
Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu là một tác phẩm xuất sắc thể hiện về những chiến sĩ. Bằng ngôn ngữ thơ độc đáo, hình ảnh những chiến sĩ trong tác phẩm của Chính Hữu được vẽ nên với tính cách chân thực, giản dị nhưng không kém phần hùng tráng và kiêu hãnh của những anh hùng dân tộc.
Bài thơ tôn vinh lòng đồng chí, tinh thần đồng đội trong những khó khăn, mỗi bữa cơm, giấc ngủ đều được chia sẻ, tận hưởng cùng nhau. Những thử thách và gian khổ không làm họ cảm thấy cô đơn, bởi tình đồng chí luôn đồng hành.
'Quê hương anh, đất mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo, đất cày lên sỏi đá'.
Trong hai dòng thơ này, hình ảnh những chiến sĩ đến từ những vùng quê nghèo khác nhau hội tụ dưới bóng cờ cách mạng, tình yêu quê hương là động lực mạnh mẽ. Họ chung lòng, chung tâm để giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của kẻ thù.
Những người xa lạ hoàn toàn đã đồng lòng đến đây, đứng chung dưới quốc kỳ. Họ mang theo ước mơ, ý chí, tinh thần đồng đội và mục tiêu cao cả. Họ hướng súng về phía kẻ thù, bảo vệ quê hương và người thân trước sự đàn áp, bóc lột của kẻ thù xâm lược. Dân ta không chịu sống dưới bóng quyền lực thù địch, không chịu bị bóc lột, trở thành nô lệ của những kẻ độc tài tham lam.
'Súng kề súng, đầu gần đầu,
Đêm lạnh chung chăn, tri kỉ đồng chí
Đồng chí!'
Hình ảnh súng sát kề, đầu sát gần, thể hiện sự đoàn kết, mục tiêu chung, và lý tưởng sống của họ. Kẻ thù chung của dân tộc góp phần kết nối những người lính trẻ tuổi, sẵn sàng hiến dâng tâm huyết để bảo vệ đất nước.
Cảm nhận về bài thơ Đồng chí, những tâm huyết tốt nhất
Tình yêu quê hương vượt lên trên tất cả, khiến họ bỏ lại mọi lo âu, trăn trở. Dù để lại những công việc chưa hoàn thành, họ quyết tâm bảo vệ độc lập quốc gia, vì tình yêu sâu sắc đối với quê hương.
'Ruộng đất anh gửi bạn đồng đội cày, Những người làm nông từ mọi miền đất nước, tiếng nói, phong tục khác nhau. Tuy nhiên, họ cùng hiên ngang đóng góp sức trẻ, tri thức để bảo vệ quê hương. Họ rời bỏ khi tuổi trẻ đang bừng sáng, tâm hồn tràn đầy hứng khởi. Một số chưa từng trải qua tình yêu, nhưng vì quê hương, họ sẵn sàng hy sinh. Họ bước đi không hối hận, chỉ mang theo một ước mơ, một khát khao bảo vệ đất nước. Tinh thần 'quyết tử cho tổ quốc' luôn rõ ràng. Các anh để lại dấu ấn không thể quên, đó là sự hy sinh vì tổ quốc. Đến ngày nay, rừng hoang sương bao phủ Những dòng thơ này thể hiện sự tinh tế của Chính Hữu khi ông sử dụng hình ảnh tinh tế 'đầu súng trăng treo'. Trong bức tranh lãng mạn, ánh trăng trở thành biểu tượng của chiến tranh, với đầu súng treo bên trên, tạo nên một hình ảnh đẹp và đầy ý nghĩa. Đây là tượng trưng cho tinh thần quả cảm, lãng mạn của chiến sĩ trong khó khăn, nó là hình ảnh đẹp nói lên lòng can đảm và tình yêu đời của họ giữa gian khổ chiến trường. Bài thơ 'Đồng chí' vừa hào hùng vừa giản dị, mộc mạc, phản ánh hình ảnh chiến sĩ trong cuộc chiến. Chính Hữu vẽ lên hình ảnh người lính với tâm hồn cao quý, lãng mạn, nhưng vẫn đậm chất anh hùng, bi tráng. Lịch sử dân tộc ta đã trải qua biết bao sóng gió. Mỗi biến cố là cơ hội để chúng ta đoàn kết, hướng về mục tiêu chung. Những năm chiến đấu chống Pháp, chống Mỹ vĩ đại đã đóng góp vào sự gắn kết của những người lính. Năm 1948, bài thơ 'Đồng Chí' của Chính Hữu nổi tiếng trong quân đội, tôn vinh tình đồng đội gian khổ, lòng hi sinh của bộ đội Cụ Hồ. Trong bài thơ, Chính Hữu vẽ nên hình ảnh hiền lành, tình nghĩa mộc mạc của những người lính nông dân. Từ khắp miền quê, họ hội tụ vì Tổ Quốc, trở thành những người lính mới. Từ những vùng quê nghèo, họ bước ra chiến trường: 'Quê hương anh, nước mặn, đồng chua, Gặp nhau với tình yêu quê hương, từ 'xa lạ' thành 'đôi tri kỉ', rồi trở thành 'đồng chí'. Những ngày đầu dưới lá quân kỳ, 'Anh với tôi đôi người xa lạ, tự phương trời chẳng hề quen nhau'. Đôi bạn gắn bó bằng những kỷ niệm đẹp: 'Súng sát kề, đầu gần nhau Cảm nhận về Đồng chí, mẫu văn lớp 9 Ngày chiến đấu, súng sát kề, chia sẻ gian khổ, nguy hiểm. Đêm rét, chăn chung trở thành biểu tượng tình thân hữu, ấm cúng. Những điều chung tạo nên đôi tri kỉ. Đồng cảm, hiểu biết là nền tảng của tình bạn, tình đồng chí. Tấm lòng của họ dành cho đất nước đặc biệt đáng trân trọng khi giặc đến. Họ gửi lại mảnh ruộng chưa cày cho người bạn thân, mặc kệ gian nhà lung lay. Hành động bình thường, nhưng chỉ có tình yêu sâu nặng với đất nước mới tạo ra quyết định ra đi như vậy. 'Ruộng nương gửi người thân cày Họ nổi lên chiến đấu vì một lý tưởng đơn giản: yêu nước. Tình yêu đất nước, ý thức dân tộc là máu thịt, là cuộc sống của họ. Nông dân và trí thức, khi nghe tiếng đau thương của quê hương, họ bỏ lại tất cả, ruộng nương, xóm làng. Nhưng khi ở nơi kháng chiến, người lính nông dân áo vải lại nhớ mảnh ruộng chưa cày và căn nhà gió lung lay. Nỗi nhớ của họ là cụ thể nhưng cảm động vô cùng. Người lính luôn hiểu rằng quê nhà có người mẹ già, người vợ trẻ và đám con đang đợi anh trở về: 'Giếng nước, gốc đa, nhớ người ra lính.' Trong tâm hồn đó, sự ra đi trở nên đơn giản nhưng thực sự là một sự hy sinh cao cả. Cả cuộc đời liên kết với quê hương, ruộng vườn, nhưng bây giờ lại phải rời đi như một phần cuộc sống được dứt bỏ. Đồng chí là một tác phẩm thơ súc tích, từng chi tiết, hình ảnh chân thật, chắt lọc và khái quát. Bài thơ đầy cảm động mô tả tình đồng chí gắn bó giữa những người nông dân mặc áo lính, cùng chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc. Toàn bộ bài thơ Đồng chí xoay quanh mối quan hệ giữa các nhân vật tôi và anh. Nhà thơ hóa thân vào những đồng đội thân thiết để mô tả hoàn cảnh, biểu hiện tâm trạng và tình cảm của họ. Quê hương anh nước mặn, đồng chua Mối liên kết giữa anh và tôi được giới thiệu ngay từ đầu. Chúng ta đều là những người nông dân mặc chiến bào, rời xa những ngôi làng nghèo đói, vất vả qua ngày. Những con người bị đau khổ đó, đã được Cách mạng giải phóng và hiện giờ, họ liên kết sâu sắc vì mục tiêu chung trong cuộc chiến đấu. Sự đoàn kết trong quân đội cách mạng giữa những người nông dân từ 'tứ xứ' này cũng được Hồng Nguyên thể hiện một cách ngây thơ ở đoạn mở đầu của bài thơ Nhớ: Lũ chúng tôi Từ 'đôi người xa lạ' đến 'thành đôi tri kỉ', từ 'không hẹn mà gặp nhau' đến 'đêm rét chung chăn' - những sự gặp gỡ, liên kết này dường như là tự nhiên và không thể tránh khỏi bởi những con người này chung sống, hy sinh cho một ý nghĩa cao cả. Hai dòng thơ này chứa đựng và kết nối nhiều hình ảnh sống động: Súng bên súng, đầu sát bên đầu Văn bài Tưởng về Đồng chí Chính Hữu sử dụng từ Hán Việt để diễn đạt một tình cảm mới. 'Tri kỉ' tô đậm sự sâu sắc, bền chặt của tình đồng chí. Từ 'đồng chí' được tách riêng thành một dòng thơ, là bản lề khép mở, nối kết hai phần của bài thơ. Dòng thơ ngắn là tiếng gọi tha thiết từ lòng những người nông dân mặc chiến bào, gắn bó trong quan hệ mới (sau 'đồng chí' có dấu cảm thán). Điều này hiểu rõ hơn trong bối cảnh lịch sử cụ thể, khi đất nước đang trong giai đoạn Cách mạng, chiến đấu cho độc lập tự do. Năm 1956, trong cuộc chiến 56 ngày 56 đêm ở Điện Biên Phủ, Chính Hữu hiểu rõ hơn về tình đồng đội:
'Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo dội,
Ta mới hiểu thế nào là đồng đội.
Đồng đội ta là hớp nước uống chung,
Nắm cơm bẻ nửa, chia nhau mỗi buổi trưa nắng hay chiều mưa.
Chia khắp anh em mỗi tin nhà,
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp,
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết...' Mỗi thước đất có giá trị riêng Đây là cách cụ thể hóa tình đồng chí. Năm 1948, ở giai đoạn đầu kháng chiến, tập trung và chung chí hướng là quan trọng. Tách riêng từ 'đồng chí' mang ý nghĩa to lớn của sự đoàn kết trong đối mặt với khó khăn. Dòng thơ này kết nối cảm xúc từ sáu dòng trước và mở đường cho phần sau. 'Đồng chí' khắc sâu khái niệm mới, làm vỡ lẽ, làm tăng sự nhận thức, gắn kết máu thịt. Đồng chí, rời ruộng nương, giếng nước gốc để 'ra lính' bảo vệ tự do. Là sự sẻ chia và động viên trong cuộc sống kháng chiến. Áo anh rách vai, quần tôi vài mảnh vá. Miệng cười buốt giá, chân không giày. Thương nhau, tay nắm lấy bàn tay. Tình đồng chí là liên kết thắm thiết, khiến cho những chi tiết nhỏ nhất trong cuộc sống trở nên quan trọng. Họ luôn nhìn và nghĩ về đồng đội trước, thể hiện sự quan tâm và tôn trọng. Qui luật này phản ánh đẹp đẽ trong sâu thẳm của tình cảm: thương người như thương bản thân, trọng người hơn trọng mình. Điều này làm nổi bật sự đồng cảm giữa những người chia sẻ cùng số phận và trách nhiệm. Trong gian khổ, sự thiếu thốn càng làm cho tình thương trở nên quý giá, đặc biệt trong tâm hồn những chiến sĩ cách mạng. Đoạn thơ ngắn, nhịp chậm, từng câu thơ chứa đựng chi tiết cụ thể, từng chi tiết như dấu ấn sâu trong tâm trí độc giả, để cuối cùng mở ra đầy đủ tâm tình và xúc cảm. Thương nhau, tay nắm lấy bàn tay. Cao điểm cảm xúc yêu thương của chiến sĩ hiện ra qua hình ảnh 'tay nắm lấy bàn tay'. Sự thương nhau được thể hiện mạnh mẽ trong cử chỉ này, nhưng cũng tràn đầy sức mạnh và sự kiên cường. Đây là biểu tượng của sự tự ý thức, nhận thức, và lòng đoàn kết sâu sắc. Quá trình nhận thức về tình đồng chí, sự phát triển của tình yêu thương nhau, dẫn đến kết thúc độc đáo: Rừng hoang đêm nay sương muối, Ba câu thơ chứa đựng nhiều điều. Hoàn cảnh chuẩn bị chiến đấu được mô tả trong không gian và thời gian: đêm nay, rừng hoang, sương muối. Tình đồng chí hiện rõ trong khó khăn, tinh thần sẵn sàng vào trận: 'Bên nhau chờ giặc tới'. Anh Vệ quốc quân thể hiện tâm hồn thơ mộng và ý nghĩa cao quý của cuộc chiến tranh: 'Đầu súng trăng treo'. Chính Hữu sáng tạo hình ảnh độc đáo, kết hợp giữa đầu súng và trăng treo, thể hiện chiến tranh và thiên nhiên, khói lửa và thanh bình. Hình ảnh này là biểu tượng của tâm hồn trong sáng của người chiến sĩ, là ý nghĩa chân chính và cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước. 'Đầu súng trăng treo' toát lên sự gian khổ nhưng cũng chứa đựng niềm vui, là sự kết hợp tinh tế giữa thực và biểu tượng, mang đậm chất lãng mạn cách mạng. Vượt qua những cảm xúc lạc lõng, Đồng chí của Chính Hữu là một tác phẩm xuất sắc về người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam. Anh, người từng bước vào thơ với 'đôi giày vạn dặm', chiếc 'áo hào hoa', giờ xuất hiện với áo rách vai, quần vá, chân không giày, toát lên tâm hồn mộc mạc, đằm thắm, đầy mến thương trong gian khổ. Phong cách thơ độc đáo của Chính Hữu hiện rõ: ít lời nhưng nhiều ý, ngòi bút tinh lọc, cô đúc từng chi tiết, hình ảnh cụ thể nhưng giàu tính khái quát, câu thơ chắc gọn bên ngoài nhưng ẩn chứa một tâm hồn thiết tha, da diết từ bên trong. Đồng chí của Chính Hữu mang vẻ đẹp của tình đồng đội, đồng chí giản dị, mộc mạc và sâu sắc của những chiến sĩ cách mạng trong những ngày kháng chiến gian lao. Chính Hữu nói về tác phẩm của mình: 'Trong bài thơ Đồng chí, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội. Suốt cuộc chiến đấu, chỉ có một chỗ dựa dường như là duy nhất để tồn tại, để chiến đấu là tình đồng chí, tình đồng đội. Đồng chí ở đây là tình đồng đội. Không có đồng đội, tôi không thể nào hoàn thành được trách nhiệm, không có đồng đội, có thể nói, tôi cũng chết lâu rồi. Bài Đồng chí là lời tâm sự viết ra để tặng đồng đội, tặng người bạn nông dân của mình.' Không gian trữ tình trong Đồng chí ấm áp nhưng không mất đi sự giá buốt. Hơi ấm tỏa ra từ tâm hồn tỉnh thức, từ mối quan hệ tri kỉ, sự gần bên, kề vai sát cánh của những con người chung lí tưởng, chung chí hướng. Đứng trong hàng ngũ cách mạng, chiến đấu cho độc lập và tự do của Tổ quốc, người lính vượt lên trên mọi khó khăn bằng sự sẻ chia và đồng lòng hiệp lực. Họ sống trong tình đồng đội, nhờ đồng đội và vì đồng đội. Những đồng đội thường là những người 'nông dân mặc áo lính', và điều này tạo ra sự gần gũi và đồng cảm giữa họ: Quê hương anh mặn mà, đồng chua 5. Nhận định về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, văn mẫu tuyển chọn Anh và tôi, từ những vùng quê khác nhau, chỉ đồng điệu ở nghèo khó của đất đai, đồng ruộng. Anh từ miền quê ven biển: 'nước mặn đồng chua'. Tôi từ vùng đất cao 'cày lên sỏi đá'. Hai người xa lạ từ phương trời khác nhau, nhưng trở thành tri kỉ: Súng bên súng, đầu sát bên đầu, Những người 'nông dân mặc áo lính' gặp nhau trong cuộc chiến đấu, cùng đứng trong hàng ngũ 'người lính Cụ Hồ'. Sự nghiệp chung của dân tộc đã xóa bỏ mọi khoảng cách, 'Súng bên súng' là chung chiến đấu, 'đầu sát bên đầu' thì chung nhiều hơn: không chỉ là gần nhau về không gian mà còn chung ý nghĩ, lí tưởng. Khi đắp chung chăn trong đêm giá rét, họ thực sự là anh em một nhà. Tình đồng chí nảy sinh từ mối tri kỉ sâu sắc, từ những điểm chung giữa 'anh' và 'tử'. Câu thứ bảy chỉ hai tiếng: Đồng chí. Nếu không kể nhan đề, đây là lần duy nhất xuất hiện trong bài, làm nổi bật một mốc mới trong cảm xúc và chứa đựng ý nghĩa sâu xa. Sáu câu thơ đầu là về tình đồng đội, tri kỉ, nhưng đây là lúc nó được nâng lên thành tỉnh đồng chí thiêng liêng. Đồng chí không chỉ là gắn bó thân tình mà còn là chung chí hướng cao cả. Những người đồng chí hòa mình trong mối giao cảm lớn lao của cả dân tộc. Đồng chí không chỉ là tên gọi thân mật mà còn là tư cách quân nhân, tư cách của 'một cây' trong sự giao kết của 'rừng cây'. Trong phần tiếp theo của bài thơ, với những chi tiết và hình ảnh cụ thể, tác giả đã thể hiện tình cảm sâu sắc của những người đồng chí. Ban đầu, họ chia sẻ cùng một nỗi nhớ quê hương: Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Trong nỗi nhớ quê hương, có những kí ức về ruộng nương, ngôi nhà, giếng nước và gốc đa. Ruộng nương là nơi kỷ niệm về đôi bàn tay cày xới, nhà nhớ người giữa gió lung lay, và giếng nước, gốc đa kể lể về người lính ra đi. Nỗi nhớ ở đây chia sẻ hai chiều, là cảm xúc đồng lòng của những người đồng chí, đồng đội. Người lính hiện hình mạnh mẽ, quyết đoán, bước đi theo tiếng gọi của non sông và tình quê hương, trong khi mỗi hơi thở đều là 'nào phai nhạt'. Ngoài hình bóng quê hương, nguồn động viên vững chắc cho người lính là đồng đội: Anh và tôi biết những cơn gió lạnh, sốt run vươn trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai, quần tôi đầy vá mảnh. Miệng cười buốt giá, chân không giày. Thương nhau, tay nắm lấy bàn tay. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh những người đồng chí trong bối cảnh thực tế, đang hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu: Đêm nay rừng hoang sương muối Có thể coi đây là một trong những bức tranh thơ đẹp nhất về người lính trong thời kỳ kháng chiến. Ba câu thơ tạo ra một bức tranh vừa chân thực với hiện thực, vừa đậm chất lãng mạn. Trên nền đen tối của cảnh đêm rừng hoang sương muối, hình ảnh người lính và khẩu súng nổi bật dưới ánh trăng. Sự kết hợp độc đáo giữa chiến binh và vầng trăng tạo ra bức tranh: 'Đầu súng trăng treo'. Quan sát là hiện thực, còn tưởng tượng trong mô tả là lãng mạn. Súng tượng trưng cho sự chiến đấu, tinh thần quyết chiến vì đất nước. Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp yên bình, thơ mộng. Hình ảnh 'đầu súng trăng treo' mang ý nghĩa cao cả về tư thế chủ động, tự tin trong chiến đấu. Chính Hữu, hay còn tên là Trần Đình Đắc, bắt đầu gia nhập quân đội vào năm 1947 và chìm đắm vào thế giới thơ ca. Bài thơ Đồng chí, sáng tác năm 1948 sau chiến dịch Việt Bắc thu-đông, chạm đến tình cảm mới mẻ và thiêng liêng của những người lính, anh bộ đội cụ Hồ trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ với hai mươi dòng thơ, ngôn ngữ giản dị, tâm tình chân thành, 'Đồng chí' tôn vinh tình đồng chí gian khổ của những anh bộ đội cụ Hồ, những nông dân yêu nước đấu tranh trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bảy câu thơ đầu tác giả giải thích nguồn gốc hình thành tình đồng chí, tình đồng chí xuất phát từ sự đồng điệu về ngôi nhà nghèo. 'Quê hương anh nước mặn đồng chua Hai câu thơ đối ứng nhau như lời tâm tình, nhẹ nhàng kể về quê hương của anh bộ đội. Quê hương anh và làng tôi đều nghèo, 'nước mặn đồng chua', 'đất cày lên sỏi đá', Chính Hữu với tâm hồn người trai cày giữ gìn tình yêu thương cho quê hương. Cùng chung cảnh ngộ từ xuất thân, những người lính không chỉ có lý tưởng chiến đấu mà còn dành sự độc lập tự do cho Tổ Quốc: 'Súng bên súng, đầu sát bên đầu' Bài văn đánh giá toàn diện về bài thơ Đồng chí Điều đó đã biến họ từ những người xa lạ thành những người thân quen, hòa mình vào hàng ngũ quân đội cách mạng. 'Anh và em, những người xa lạ gặp nhau dưới bầu trời phương xa Tình đồng đội đặc biệt nảy nở và gắn bó chặt chẽ trong sự hòa mình, chia sẻ khó khăn và niềm vui trong cuộc sống của binh sĩ. 'Đêm lạnh, hai trái tim hòa mình thành một, tri kỉ bền vững' Trong những đêm gió buốt, những người lính cùng chia sẻ chăn ấm, không chỉ tâm sự về những kỷ niệm nhà, quê hương, mà còn trở thành tri kỉ không thể tách rời. Sau sáu câu thơ đầu, tác giả buông một dòng đặc biệt: 'Anh ơi!' chỉ với hai chữ và một dấu chấm than nhỏ nhưng ý nghĩa to lớn. Đó là nét nhấn đặc biệt, là tiếng gọi xúc động, lan tỏa từ tận đáy lòng, biểu tượng cho tình cảm chín muồi, là cột mốc cao quý trong tình bạn và tình người, nảy sinh từ những cảm xúc truyền thống, là sự liên kết mạnh mẽ của bài thơ. Mười hai câu thơ tiếp theo là biểu hiện của xúc động, của tình đồng chí mạnh mẽ trong tâm hồn lính. Trước hết, đó là sự chia sẻ tận tâm, chấn thương tâm lý của nhau: 'Ruộng lương, anh gửi bạn cày mỏi Khi tấm chăn chung được bày ra, bao nhiêu tâm sự của người lính mở lời, họ kể về ruộng lúa, ngôi nhà, người thân... Những hình ảnh đó trở nên gắn bó mạnh mẽ với tâm hồn người lính. Đằng sau quyết định rời bỏ mạnh mẽ ấy, những chiến sĩ vẫn kết nối mạnh mẽ với quê hương: 'Giếng nước, gốc đa nhớ người đi lính' Giếng nước, gốc đa là biểu tượng tượng trưng cho những người ở nhà, là mẹ già, người vợ, và đàn con đang theo dõi, nhớ về người lính xa xôi. Có thể nói đây là nỗi nhớ của lính, ôm trọn hình bóng quê hương, trong những điều đơn giản, gần gũi nhất là những ký ức dễ nhớ, dễ thương nhất. Các dòng thơ tiếp theo vẫn thể hiện tình đồng chí một cách cảm động, họ cùng nhau chia sẻ những khó khăn, đau đớn của cuộc sống lính: 'Anh và tôi trải qua từng cơn rét lạnh Tác giả vô cùng chân thực khi mô tả chi tiết, từ chiếc áo rách, quần vá cho đến đôi chân không giày, và căn bệnh sốt rét rừng khó chịu mà người lính phải gánh chịu. Đây là biểu tượng của sự thiếu thốn trong cuộc sống lính. Mặc dù mọi người quân dân và quân lính đều phải đối mặt với những khó khăn như nhau trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhưng điều quan trọng mà Chính Hữu muốn nhấn mạnh không chỉ là gian khổ mà còn là sự đồng cảm, hiểu biết lẫn nhau trong cảnh khó. Câu thơ với cấu trúc đối chiếu và sự xuất hiện lặp lại của 'tôi' và 'anh' thêm vào đó tạo nên sự đồng điệu, sự chia sẻ và sự đồng đều trong mọi trải nghiệm của người lính. Mặc dù đối mặt với khó khăn, họ vẫn giữ lại nụ cười lạc quan, 'nụ cười lạnh lẽo', và điều đáng xúc động hơn là họ vẫn truyền đạt sự ấm áp của tình thương cho nhau, 'yêu thương nhau... bằng tay', hình ảnh việc nắm lấy bàn tay đơn giản nhưng truyền tải sự gắn bó sâu sắc của người lính, đồng thời tác động mạnh mẽ lên sức mạnh của tình cảm, như thể chỉ cần một cử chỉ 'bàn tay nắm lấy' là đủ để người lính có thêm sức mạnh vượt qua mọi thử thách. Ba câu thơ cuối bài là bức tranh tuyệt vời về tình đồng chí, là biểu tượng tuyệt vời của cuộc sống người lính: Mong rằng sau khi đọc Đánh Giá về bài Đồng chí của Chính Hữu do đội ngũ biên soạn Mytour, bạn sẽ thấu hiểu sâu hơn về tâm trạng và tình cảm của tác giả trong tác phẩm. Bạn có thể tham khảo thêm Tạo bài Viết số 2: Văn tự sự để chuẩn bị cho Bài viết số 2. Hoặc đọc các bài văn biểu cảm về một tác phẩm văn học khác như Cảm nhận sau khi học bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận, Cảm nhận về bài thơ Nói với con của Y Phương, Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác,...
Nơi nhà, gió đưa mặt đất rung bay,
Dưới tán đa, nước giếng họ nhớ đến người lính'.
Biết đến từng cơn lạnh buốt,
Sốt run tay cầm gươm, trán rơi mồ hôi.
Áo anh rách vùng vai
Quần tôi đính vài miếng vá
Đứng gần nhau, chờ đợi giặc đến
Trăng treo đầu súng'.
3. Phê phán bài thơ Đồng chí, mẫu 3:
Làng tôi nghèo, đất cày lên sỏi đá'
Đêm lạnh chung chăn, tri kỉ đồng chí
Đồng chí!'
Gian nhà không, gió lung lay mặc kệ'4. Ý kiến cá nhân về bài thơ Đồng chí, mẫu 4:
Làng tôi nghèo, đất cày lên sỏi đá
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau khi chưa hiểu chữ
Quen biết từ buổi một, hai
Súng bắn chưa quen
Chiến thuật mươi bài
Trái tim vẫn cười kháng chiến...
Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ
Bên nhau chờ giặc, đầu súng trăng treo.5. Nhận định về bài thơ Đồng chí, mẫu 5:
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh và tôi, đôi người xa lạ
Từ phương trời chẳng hẹn quen biệt nhau.
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Đứng cạnh nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.6. Cảm nghĩ về bài Đồng chí của Chính Hữu, mẫu 6:
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá'
Định mệnh không hẹn mà gặp, tình cảm chẳng gì ngăn cản'
Căn nhà, gió mạnh đừng loay hoay'
Cảm giác lạnh buốt, trán ướt mồ hôi'