Trong kinh tế học, xu hướng tiêu dùng gần biên (MPC) là một chỉ số đo lường mức độ tiêu dùng tăng thêm. Theo định nghĩa, việc tăng chi tiêu cá nhân xảy ra khi thu nhập khả dụng tăng lên (sau khi trừ thuế và các khoản chuyển nhượng). Tỷ lệ thu nhập khả dụng mà một cá nhân chi tiêu được gọi là xu hướng tiêu dùng. MPC là tỷ lệ tăng thu nhập mà một cá nhân dành cho chi tiêu. Ví dụ, nếu một hộ gia đình có thu nhập khả dụng là 1 đô la và xu hướng tiêu dùng gần biên là 0,65, thì hộ gia đình đó sẽ tiêu hết 65 xu và tiết kiệm 35 xu. Rõ ràng, hộ gia đình không thể chi tiêu nhiều hơn 1 đô la nếu không vay mượn. MPC ở những người nghèo sẽ cao hơn so với người giàu.
Theo John Maynard Keynes, xu hướng tiêu dùng gần biên nhỏ hơn 1.
Cơ sở
Về mặt toán học, hàm được biểu diễn như đạo hàm của hàm chi tiêu C theo thu nhập khả dụng Y, nói cách khác là độ dốc tức thời của đường cong -
Hoặc gần đúng bằng
Với là sự thay đổi trong tiêu dùng và là sự thay đổi trong thu nhập khả dụng.
Có thể tính xu hướng tiêu dùng cận biên bằng cách chia thay đổi trong tiêu dùng cho thay đổi trong thu nhập, hoặc . Khái niệm MPC có thể được giải thích bằng một ví dụ đơn giản:
Thu nhập | Chi tiêu |
---|---|
120 | 120 |
180 | 170 |
Giả sử bạn nhận được một khoản tiền thưởng dưới dạng tiền lương phát sinh, và số tiền này lớn hơn $500 so với thu nhập bình thường của bạn hàng năm. Bạn bất ngờ có thêm $500 so với mức thu nhập bạn đã kiếm được trước đây. Nếu bạn quyết định chi $400 trong số khoản thu nhập tăng này cho một bộ quần áo công sở mới, thì xu hướng tiêu dùng cận biên của bạn là 0,8 ($400/$500).
Xu hướng tiêu dùng cận biên được đo bằng tỷ lệ thay đổi trong tiêu dùng so với thay đổi trong thu nhập, vì vậy nó thường nằm trong khoảng từ 0 đến 1. MPC có thể lớn hơn 1 nếu người tiêu dùng vay tiền hoặc có các khoản chi tiêu cao hơn thu nhập của họ. MPC cũng có thể nhỏ hơn 0 nếu thu nhập tăng dẫn đến sự giảm trong tiêu dùng (điều này có thể xảy ra nếu phần tăng thu nhập dành cho tiết kiệm có giá trị hơn là dành cho mua sắm). Một trừ đi MPC bằng xu hướng tiết kiệm cận biên (trong một nền kinh tế đóng), điều này rất quan trọng đối với kinh tế học Keynes và là một biến số quan trọng trong việc xác định số nhân.
Trong mô hình tiêu chuẩn của Keynes, MPC nhỏ hơn xu hướng tiêu dùng trung bình (APC) vì trong ngắn hạn, một phần tiêu dùng không thay đổi theo thu nhập. Thu nhập giảm (tăng) không dẫn đến giảm (tăng) tiêu dùng do mọi người giảm (tăng) một phần tiết kiệm để duy trì tiêu dùng. Trong dài hạn, khi giàu có và thu nhập tăng lên, tiêu dùng cũng tăng lên, xu hướng tiêu dùng cận biên trong dài hạn sẽ gần bằng xu hướng tiêu dùng trung bình hơn.
MPC không bị ảnh hưởng nhiều bởi lãi suất; tiêu dùng có xu hướng ổn định so với thu nhập. Lý thuyết cho rằng lãi suất cao sẽ tạo ra khoản tiết kiệm lớn hơn (hiệu ứng thay thế) nhưng cũng có nghĩa là mọi người không cần phải tiết kiệm nhiều cho tương lai.
Các nhà kinh tế thường phân biệt xu hướng tiêu dùng cận biên từ thu nhập thường xuyên và xu hướng tiêu dùng bình quân từ thu nhập tạm thời, vì nếu người tiêu dùng kỳ vọng sự thay đổi trong thu nhập thường xuyên, họ sẽ có động lực để tăng tiêu dùng. Điều này ngụ ý rằng hệ số nhân trong trường hợp có sự thay đổi dài hạn trong thu nhập sẽ lớn hơn so với trường hợp có sự thay đổi tạm thời trong thu nhập (mặc dù những phân tích ban đầu của lý thuyết Keynes đã bỏ qua điều này). Tuy nhiên, sự khác biệt giữa thay đổi dài hạn và tạm thời trong thu nhập thường khó nhận biết trong thực tế, và cũng khó để xác định một thay đổi trong thu nhập là dài hạn hay tạm thời. Ngoài ra, xu hướng tiêu dùng cận biên cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố mua sắm như lãi suất hiện tại và mức chi tiêu dư dùng chung.