Thuốc Đông y là thuật ngữ được dùng ở Việt Nam để chỉ các loại thuốc thuộc Y học cổ truyền Trung Quốc. Thuốc Đông y được phân biệt với thuốc Nam, loại thuốc thuộc Y học cổ truyền Việt Nam. Tại Trung Quốc, loại thuốc này được gọi là Trung dược (中药 - zhōngyào), Hán dược (汉药, 漢藥), v.v... Thuốc Đông y rất phổ biến ở những quốc gia chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và trong cộng đồng người Hoa.
Phân loại thuốc Đông y
- Phân loại theo tính chất, thuốc Đông y được chia thành 5 loại cơ bản: tính hàn (lạnh), lương (mát), nhiệt (nóng), ôn (ấm), bình (trung bình so với các loại tính khác).
- Phân loại theo vị giác, thuốc Đông y có 5 vị: ngọt, cay, đắng, chua, mặn.
- Phân loại theo nguyên liệu, thuốc Đông y được chia thành ba nhóm: thực vật, động vật, và khoáng chất. Các bộ phận của thực vật như rễ, củ, thân, vỏ (vỏ rễ, vỏ thân, vỏ quả, vỏ củ...), lá, hoa, quả, hạt, hoặc các bộ phận của động vật như xương, da, thịt, mỡ, nội tạng (thậm chí sừng, vây, móng, lông...), cũng như một số khoáng chất và tinh thể như hoàng thổ, thạch tín, băng phiến,... đều được sử dụng trong thuốc Đông y.
Quy trình chế biến
Thuốc Đông y có nguồn gốc thực vật thường được phơi khô hoặc sấy khô. Tuy nhiên, một số vị thuốc như nhân sâm vẫn được bảo quản tươi. Đối với thuốc từ động vật, có thể trải qua các phương pháp như sấy khô (vây cá mập), ngâm rượu (tắc kè, cá ngựa, các bộ phận sinh dục của con đực), hoặc nấu thành cao (như cao hổ cốt, cao khỉ, v.v...).
Chẩn đoán và kê toa
Để tạo ra một đơn thuốc Đông y, các thầy thuốc thường sử dụng phương pháp chẩn đoán truyền thống của y học cổ truyền Trung Quốc như bắt mạch và xem sắc thái. Khi xác định được bệnh, thầy thuốc sẽ phối hợp nhiều loại thuốc Đông y theo tỷ lệ và phương thức nhất định để tạo thành một đơn thuốc gọi là thang thuốc. Rất ít khi dùng một loại thuốc Đông y đơn lẻ, trừ trường hợp giải độc, cấp cứu, hoặc sử dụng ngoài da gọi là toa độc vị. Y học cổ truyền Trung Quốc dựa trên thuyết âm dương ngũ hành để phối hợp các vị thuốc.
Áp dụng thuốc
Bệnh nhân thường được khuyến nghị sử dụng nhiều thang thuốc và phương pháp điều trị khác nhau trong một đợt trị liệu. Thời gian điều trị bằng thuốc Đông y thường kéo dài hơn so với phương pháp y học hiện đại cho cùng một loại bệnh.
Thuốc Đông y chủ yếu được sử dụng qua đường miệng. Thuốc được sắc bằng cách luộc, hãm hoặc ninh trong nước theo tỷ lệ mà thầy thuốc hướng dẫn, ví dụ như số lượng nước và thời gian nấu để có lượng thuốc còn lại. Nếu bệnh nhân không có điều kiện sắc thuốc, có thể dùng thuốc đã chế thành viên. Đối với thuốc Đông y ngâm rượu, bao gồm cả phần động vật hay cao ngâm rượu, thầy thuốc sẽ hướng dẫn cụ thể về thời gian, lượng dùng, đối tượng sử dụng, chỉ định và chống chỉ định.
Ngoài ra, thuốc Đông y còn có thể được sử dụng để chườm, đắp, bôi, bó, xông hoặc để trong gối khi ngủ.
Thuốc Đông y cũng có thể được dùng như thực phẩm trị liệu, ví dụ như hầm với gà, gân, nấu canh với cá, xương, thịt, làm lẩu hoặc chế biến thành kẹo ngậm.
Để tránh phản ứng giữa các kim loại và hoạt chất sinh học trong thuốc, phương pháp sắc thuốc truyền thống thường sử dụng nồi đất nung hoặc gốm sứ. Do hàm lượng hoạt chất sinh học rất thấp và nước sôi ở 100 độ C dễ phản ứng với tạp chất kim loại như Crôm, Niken, Sắt trong nước, làm giảm hiệu quả và gây tác dụng phụ. Do đó, nên sử dụng nước cất để sắc thuốc Đông y nhằm loại bỏ các phản ứng không mong muốn.
Hiện tượng không mong muốn
Nhiều người lầm tưởng rằng thuốc Đông y, do sử dụng nguyên liệu thiên nhiên, sẽ không gây ra tác dụng phụ. Điều này dẫn đến việc sử dụng thuốc không đúng cách, chẳng hạn như dùng liều cao kéo dài hoặc phối hợp các vị thuốc không đúng tỷ lệ. Thực tế, mỗi vị thuốc có thể ảnh hưởng đến nhiều cơ quan trong cơ thể. Do đó, trong quá trình điều trị, thuốc có thể gây ra tác dụng phụ không mong muốn ở các cơ quan khác.
Các loại thuốc Đông y
Thuốc Đông y có rất nhiều loại khác nhau. Mặc dù thường nghe nói có 108 loại thuốc Đông y, con số này không chính xác. Theo Danh mục thuốc Đông y Trung Hoa của Trung Quốc, số lượng có thể lên đến vài trăm loại.
Trong văn hóa dân gian Việt Nam có một bài thơ về mối quan hệ nam nữ, trong đó chứa nhiều từ đồng âm khác nghĩa, bao gồm cả các loại thuốc Đông y.
- Trước kính lạy trông ơn bối mẫu,
- Sau tỏ lòng thục nữ hồng hoa.
- Đôi ta từ bán hạ giao hòa,
- Lòng những ước liên kiều hai họ.
- Duyên xích thược anh đà gắn bó,
- Nghĩa quế chi em khá ghi lòng.
- Mặc dù ai trỗi tiếng phòng phong,
- Đôi ta nguyện cùng nhau cát cánh.
- Ngồi nhớ tới đào nhơn cám cảnh,
- Nỡ để cho quân tử ưu phiền.
- Muốn sao cho nhơn nghĩa huỳnh liên,
- Thì mới đặng vui vầy viễn chí.
- Ngồi buồn chốn mạch môn thăn thỉ,
- Nhớ thuyền quyên tục đoạn gan vàng.
- Ơn cha mẹ nghĩa tợ hoài san,
- Công song nhạc tình đà đỗ trọng.
- Ngày vái tới thiên môn lồng lộng,
- Đêm nguyện cùng thục địa chiếu tri.
- Dạ muốn cho trọn chữ đương quy,
- Vậy nên phải cạn lời bạch truật.
- Bấy lâu tưởng linh tiêu phục dực,
- Nay mới tường độc hoạt loan phòng.
- Trách dạ em nhiều nỗi xuyên khung,
- Chạnh tủi phận lòng này cam toại.
- Vì nhẫn nhục không trông trái phải,
- Nỡ phụ người bạch chỉ chi nhân.
- Tưởng cùng nhau tụ hội châu trần,
- Hay đâu bậu ký sanh viễn địa.
- Này kinh giới chẳng toàn nhơn nghĩa,
- Chốn tiền hồ nguyệt kết liễu châm.
- Tai vẳng nghe nổi tiếng huỳnh cầm,
- Chạnh tủi phận đằm đằm trạch tả.
- Nhớ trinh nữ lòng dao cắt dạ,
- Quặn nhơn bào tựa muối xát lòng.
- Ngùi châu sa lụy ngọc ròng ròng,
- Đoạn thần khúc đề thơ trách bậu.
(Không rõ tác giả)
Nhà thơ Hồ Xuân Hương cũng có một bài thơ nổi tiếng mang tên 'Khóc chồng làm thuốc', trong đó sử dụng nhiều từ đồng âm khác nghĩa để chỉ các loại thuốc Đông y.
- Tiếng khóc vang vọng từ đâu?
- Đau lòng vì chồng, nước mắt rơi đầy!
- Nhớ hương cam thảo ngọt ngào biết bao,
- Vị quế cay đắng làm lòng dâng lên.
- Thạch nhũ và trần bì còn lưu lại chăng,
- Những món này đã được chuẩn bị sẵn rồi.
- Dao cầu, thiếp không biết trao cho ai.
- Chàng đã qua đời, thiếp còn sống để làm gì?
Ghi chú
- Thuốc Đông y
Liên kết bên ngoài
- Y học truyền thống