Tuy nhiên, Phạm Quỳnh chủ yếu thể hiện tình yêu nước bằng cách bảo vệ và tôn vinh giọng nói của dân tộc, và nỗ lực xây dựng một nền giáo dục độc lập cho đất nước. Đáng tiếc, vì người đồng thời không hiểu ông, nên ông đã phải trải qua những trắc trở đau thương. Tuy nhiên, lịch sử cuối cùng sẽ công nhận đúng giá trị của ông, và có lẽ đã đến lúc cần phải đánh giá lại nhân vật này.
Phát triển ngôn ngữ quốc gia, xây dựng nền giáo dục Quốc gia Việt Nam
Phạm Quỳnh là người đầu tiên nhận ra rằng đến đầu thế kỷ XX, nước ta vẫn chưa có văn học quốc gia, vì vậy chưa có hệ thống giáo dục quốc gia, và do đó, đất nước chưa thể phát triển. Ông đặt câu hỏi: Một quốc gia muốn tồn tại và phát triển, có thể học mãi mãi từ người khác viết cho mãi được không? [2] Mặc dù không nói trực tiếp, nhưng rõ ràng ông đã trả lời không, và chỉ ra lý do tại sao chúng ta chưa có văn học quốc gia, giáo dục quốc gia: Đó là vì người Việt từ xưa đã học và sử dụng văn học của người Hán cũng như viết bằng chữ mượn của họ.
Dân tộc ta thời xưa không có chữ viết nên đã phải sử dụng chữ Hán trong hai nghìn năm, chữ Nôm chỉ được sử dụng trong một thời gian ngắn. Phạm Quỳnh nhận xét: Không có quốc gia nào ở châu Âu trong hai nghìn năm chỉ tập trung vào việc học chữ Hy Lạp hoặc chữ La Mã như quốc gia của chúng ta tập trung vào việc học chữ Hán… Văn học Hán tự nhiên trở thành văn học quốc gia của chúng ta, trong khi 'Nôm' chỉ là ngôn từ trong dân gian, của những người không biết chữ. Tình trạng học mượn viết nhờ đã kìm hãm bước tiến của dân tộc ta.
Học giả - nhà cách mạng Ngô Đức Kế (1878-1929) cũng đã nói: Nước Việt Nam ta hàng nghìn năm nay học chữ Hán, theo tư tưởng Khổng. Văn học Hán tức là văn học quốc gia, việc học theo tư tưởng của Khổng là Quốc học [3]. Điều này có nghĩa là hệ thống giáo dục của chúng ta không có tư tưởng độc lập, phải tuân theo tư tưởng Nho học của quốc gia Trung Quốc. Toàn bộ hệ thống chính trị, văn hóa-xã hội của đất nước ta, nội dung học tập và quy chế thi cử của giáo dục quốc gia của chúng ta đều bắt chước theo Trung Quốc.
Người Trung Quốc đã từng nói: vì chữ Hán khó học nên hầu hết dân Trung Quốc mù chữ, ngu dốt, đất nước lạc hậu yếu kém. Chúng ta sử dụng chữ Hán cũng phải chịu đựng những hậu quả đó. Đặc biệt, tiêu cực của việc học theo tư tưởng của Khổng (tức là Nho giáo) đã ngăn chặn sự phát triển của xã hội Việt Nam. Năm 1908, nhà ngôn ngữ học Trung Quốc Tiền Huyền Đồng đã nói Rằng để loại bỏ tư tưởng của Khổng, phải trước tiên loại bỏ chữ Hán. Ngay từ năm 1907, Phan Châu Trinh đã kêu gọi Không loại bỏ chữ Hán thì không thể cứu vãn nước Nam! Năm 1936, Lỗ Tấn dẫn chứng Không xóa bỏ chữ Hán thì Trung Quốc sẽ mất nước!
Văn học Việt Nam viết bằng chữ Hán được gọi là Hán văn, không phải là Việt văn, lấy mẫu văn học Trung Hoa, không thể phản ánh ngôn ngữ mẹ đẻ của dân ta, chỉ là văn bác học của tầng lớp thượng lưu, người dân chỉ hiểu qua bản dịch. Do đó, mặc dù là một phần của văn học quốc gia, nhưng không phải là nền học thuật truyền thống của nước ta. Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Trương Chính… không được xem là văn học dân tộc ta [4]. Vì vậy, mặc dù văn học chữ Hán đã đóng góp vào việc xây dựng văn minh Việt, nhưng không thể gọi là Quốc học của nước ta.
Tất cả là do chữ Hán không ghi âm được tiếng Việt, vì vậy văn học chữ Hán không phản ánh được cuộc sống đông đảo của dân ta! Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu được điều đơn giản đó. Chữ Hán chủ yếu ghi ý, không ghi âm. Việt Nam, Nhật, bán đảo Triều Tiên đều sử dụng chữ Hán, văn học chữ Hán của ba dân tộc này đều bế tắc, cuối cùng đều phải tìm lối thoát bằng cách sáng tạo ra hệ thống chữ ghi âm tiếng mẹ đẻ của mình: chữ Nôm ở Việt Nam, chữ Kana ở Nhật, chữ Hangul ở Triều Tiên.
Chữ Nôm đã mở ra một nền văn học dân tộc sáng rỡ với những tác phẩm nổi bật như của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,… Tuy nhiên, do chữ Nôm chưa hoàn thiện và thời gian sử dụng làm chữ viết chính thức quá ngắn, và ít người biết sử dụng, nên văn học chữ Nôm vẫn chưa trở thành văn học quốc gia của nước ta.
Sau này, các nhà truyền giáo Ki Tô đã sáng tạo ra chữ Quốc ngữ, món quà quý giá của văn minh phương Tây dành cho dân tộc ta, hơn cả chữ Hán và chữ Nôm ở chỗ ghi được toàn bộ ngữ âm tiếng Việt, lại dễ học dễ viết, có thể phổ cập cho mọi người. Phạm Quỳnh đã đánh giá rất đúng đây là công cụ kỳ diệu để giải phóng trí tuệ [5], và ông dẫn đầu trong việc sử dụng chữ Quốc ngữ để xây dựng nền giáo dục quốc gia. Đúng là từ khi có chữ Quốc ngữ, trí tuệ của người Việt đã được giải phóng, mở rộng, và văn học, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật… phát triển, chỉ sau khoảng trăm năm đã đạt được thành tựu vượt bậc so với hàng ngàn năm trước.
Phạm Quỳnh đã nhận xét: Vấn đề quan trọng nhất ở Việt Nam ngày nay là vấn đề văn hóa quốc ngữ. Nếu vấn đề này được giải quyết, thì sự học hỏi mới có thể tiến xa, dân trí mới có thể mở rộng, và cuộc tiến hóa sau này mới có thể mong chờ. Khi chữ Quốc ngữ được sử dụng rộng rãi như là chữ viết chính thức, người Việt Nam mới có thể khám phá ra các lĩnh vực khoa học mới, từ đó xây dựng nên một nền giáo dục quốc gia phù hợp với trình độ và tính cách của dân tộc… Nói một cách ngắn gọn, văn hóa quốc ngữ phát triển, thì nền giáo dục quốc gia mới có thể xây dựng, tư tưởng mới có thể mở rộng, và người dân Việt Nam không còn phải sống trong thời kỳ học mướn viết nhờ như từ xưa đến nay vậy.… Ta chẳng nên oán gì các cụ ta ngày xưa vì say đắm chữ Tàu nên lãng bỏ tiếng Nôm, để cho con cháu ngày nay khổ vì có nước mà không có văn, có người mà không có cách nói cho nhau nghe ngoài những câu nhật dụng thường đàm… Chữ Quốc ngữ chính là cái bè để cứu vớt bọn ta trong bể trầm luân vậy.
Ông đề nghị: Lịch sử đã mắc lỗi, chúng ta phải học từ sai lầm của quá khứ mà không tái diễn… Các tổ tiên đã đánh mất điều gì đó, chúng ta phải chú ý… Trước đây không có ai viết văn bằng chữ Nôm, chúng ta không thể lấy người trước làm gương được…. Mong mọi người đừng phớt lờ, đừng coi thường tiếng Việt. Tương lai của quốc gia nằm ở đó.
Người xưa đã bỏ lỡ cơ hội với văn Nôm vì chữ Nôm chưa hoàn thiện và khó học, phải biết chữ Hán mới có thể học chữ Nôm, trong khi tổ tiên của chúng ta giỏi văn Hán, như Khương Công Phụ đỗ Trạng nguyên cả ở Việt Nam và Trung Quốc, được phong làm Tể tướng nhà Đường Trung Quốc.
Trước Phạm Quỳnh, các nhà cách mạng Duy Tân (1904) và Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) đã nhận ra tầm quan trọng của chữ Quốc ngữ. “Bài hát khuyến khích học chữ Quốc ngữ ” của ĐKNT có câu Chữ Quốc ngữ là tinh hoa trong nước/ Phải đem ra tính toán trước dân ta/ Sách các quốc gia, sách Trung Quốc/ Chữ nào chữ ấy dịch ra rõ ràng. ĐKNT phá vỡ “cựu học”, tức là hệ thống học thuật Nho học, ủng hộ việc xây dựng hệ thống học thuật mới sử dụng chữ Quốc ngữ và hấp thụ các giá trị tiên tiến từ văn minh phương Tây. Tuy nhiên, cả hai phong trào cách mạng trên đều bị thực dân Pháp áp đặt và tiêu diệt.
Phạm Quỳnh không chỉ đánh giá cao chữ Quốc ngữ mà còn đặt ra mục tiêu phát triển tiếng Việt: phải sáng tạo và phát triển, từ ngôn từ sử dụng cho đến cấu trúc câu. Điều này là vì ngôn từ tiếng Việt thời đó khá nghèo, cần phải mượn từ Hán-Việt từ Nhật Bản và Trung Quốc khi họ chuyển sang sử dụng chữ Hán để diễn đạt các khái niệm từ văn minh phương Tây. Chính ông cũng tiếp tục sử dụng kiểu viết cũ và nhiều từ cổ như bất nhược (chẳng như), mang nhiên (không biết gì)…
Ông mạnh mẽ phản đối việc sử dụng tiếng Pháp thay thế tiếng Việt trong giảng dạy và cuộc sống hàng ngày và cho rằng việc “đổi não” [tư duy bằng ngoại ngữ] đó là không thể thành công theo cách tự nhiên. Dù có thể thành công, cũng không nên làm.
Trong bài diễn thuyết tại Viện Hàn lâm Pháp ở Paris (1922), ông đã chỉ trích chính quyền Pháp ép các trường Pháp-Việt ở nước ta dạy tiếng Pháp từ cấp tiểu học mà không dạy tiếng Việt: Nếu dân Việt Nam là một dân tộc chưa có lịch sử thì chí quý cứ dạy hết cả chữ Tây… Nhưng dân Việt Nam không phải là một tờ giấy trắng muốn vẽ gì cũng được, mà là một tập giấy đã có chữ sẵn từ lâu, nếu bây giờ viết đè một loại chữ mới lên trên thì e như giấy lộn… Dạy khắp chữ Tây cho dân chúng tôi từ nhỏ đến lớn như ở các trường Pháp-Việt ngày nay chỉ khiến người Việt Nam mất bản sắc…
Đứng giữa trung tâm Paris lên án chính quyền Pháp âm mưu đồng hóa dân tộc ta đến mức mất bản sắc Việt Nam – điều này chứng tỏ Phạm Quỳnh là một nhà yêu nước có tri thức vượt trội. Không chỉ nói, sau khi trở thành Thượng thư Bộ Học ở triều đình Huế (1932), ông đã đòi được từ chính quyền Pháp quyền quản lý giáo dục cấp tiểu học và tự mình ban hành lệnh dạy chữ Quốc ngữ ở cấp tiểu học trên toàn quốc.
Phạm Quỳnh cũng lãnh đạo phong trào viết văn bằng chữ Quốc ngữ, thời đó chỉ có rất ít người tham gia. GS Dương Quảng Hàm đánh giá các bài viết của ông đã giúp cho tiếng Việt có thể diễn dịch được các lý thuyết, ý tưởng về triết học, khoa học mới.[6] Do đó, ông đã đóng vai trò của một nhà khai sáng trong lịch sử dân tộc.
'Yêu quý và tôn trọng tiếng Việt – ngôn ngữ của dân tộc ta '
Ngày nay, khi đọc những tác phẩm thơ và văn bằng chữ Nôm của các tiền bối, lòng ta tràn đầy cảm xúc vô tận. Có lẽ hồn xưa của đất nước Việt Nam vẫn còn hiện diện trong những tác phẩm văn thơ đó, vẫn vẹn nguyên trong những lời thơ vụn vặt đó, vẫn vang lên những giọng nói của thời xưa trong ta. Cùng một tiếng khóc, cùng một tiếng cười nhưng với giọng nói của họ Hàn [Hàn Thuyên, người sáng lập chữ Nôm], tại sao nó lại khiến ta cảm thấy như vậy? Bởi vì trời sinh ta để nói tiếng ấy, trời sinh ra tiếng đó để ta nói, chỉ có nói bằng tiếng ấy mới thể hiện được tâm hồn của ta, nói bằng tiếng khác là nói những điều không đúng. Trên cả trời đất, chỉ có tiếng nói ấy với ta, ta với tiếng nói ấy, như một duyên nợ vốn có.
Đó là tiếng mẹ đẻ của người Việt, liên kết chặt chẽ với số phận của dân tộc ta, được Phạm Quỳnh tôn vinh như là linh hồn của đất nước. Với quan điểm đó, ông hiến dâng cuộc đời mình để bảo tồn và tôn trọng tiếng Việt trong bối cảnh văn hóa phương Tây lan tràn, nền học thuật truyền thống dựa trên chữ Hán đang bị loại bỏ, và chữ Quốc ngữ vẫn còn bị khinh thường.
Mặc dù rất giỏi về chữ Hán và tiếng Pháp, nhưng Phạm Quỳnh ủng hộ việc sử dụng tiếng gốc của dân tộc để viết văn bản quốc gia, không thể sử dụng chữ Hán hoặc tiếng Pháp làm văn bản quốc gia. Ông hiểu rằng tiếng nói là yếu tố quan trọng nhất trong việc hình thành dân tộc. Do đó, từ xưa đến nay, mỗi dân tộc đều có một ngôn ngữ riêng; mất nước có thể, nhưng nếu giữ được tiếng mẹ đẻ thì dân tộc vẫn tồn tại. Ví dụ, người Do Thái mất nước, lang thang suốt 2000 năm nhưng vẫn tồn tại nhờ giữ được tiếng Hebrew, cuối cùng lập nên quốc gia mạnh mẽ là Israel.
Chính ngôn ngữ quyết định sự hình thành và tồn tại của một dân tộc, là tiêu chuẩn chủ yếu để phân biệt các dân tộc. Một dân tộc nếu mất tiếng mẹ đẻ, có nguy cơ bị tiêu diệt hoặc hòa nhập vào một nền văn hóa khác. Nếu giữ được tiếng mẹ đẻ, dù nước bị mất nhưng dân tộc vẫn tồn tại. Ví dụ, người Do Thái mất nước, lang thang suốt 2000 năm nhưng vẫn tồn tại nhờ giữ được tiếng Hebrew, cuối cùng lập nên quốc gia mạnh mẽ là Israel.
Phạm Quỳnh đặc biệt quan tâm đến chữ Nho, tức chữ Hán đã được Việt hóa từ Hán-Việt, và ông đưa ra quan điểm nên sử dụng từ Hán-Việt cho các từ ngữ có tính chất học thuật. Ông lấy ví dụ: Nếu nói “Nhà vua Việt Nam đi thăm Bắc Kỳ, hiện đã trở về Kinh ” thì nghe có vẻ bình thường quá, không trang trọng như nói “Hoàng thượng ngự tại Bắc Kỳ, nay đã hồi phục ”. Các từ Hán-Việt như ngự tại, hồi phục này trước đây thường được sử dụng nhưng ngày nay hầu như đã biến mất.
Theo ông, việc học và sử dụng chữ Nho, nếu xưa là vì chữ Nho, thì bây giờ là vì quốc văn; mục đích đã thay đổi thì phương pháp cũng khác; xưa học nhiều, còn bây giờ chỉ cần học một phần nhỏ, nhưng đó là phần rất quan trọng để đọc hiểu văn thơ của người xưa, không phải để viết văn hay thơ bằng chữ Nho.
Đương nhiên quan điểm trên chỉ phù hợp với thời điểm 100 năm trước, khi tiếng Việt còn thiếu từ ngữ. Ngày nay, người Việt tự tạo ra nhiều từ mới, từ Hán-Việt đã được Việt hóa thành từ Việt, tiếng Việt có thể diễn đạt mọi khái niệm mà không cần dùng chữ Hán (trái lại với Nhật và Hàn Quốc). Vì vậy, ngày nay người Việt không cần phải học chữ Hán ở trường cấp ba. Riêng sinh viên ngành khoa học xã hội-nhân văn thì cần học chữ Nho để đọc hiểu tư liệu cổ để lại.
Tình yêu tiếng Việt của Phạm Quỳnh được thể hiện rõ khi ông tôn vinh giá trị văn chương của Truyện Kiều, mặc dù bị một số học giả yêu nước chỉ trích: Truyện Kiều thực sự là một tác phẩm văn chương tuyệt vời, có thể không có tác phẩm văn chương nào trong văn học Trung Quốc vượt qua được... có thể sánh với những tác phẩm thật sự xuất sắc trong văn học các nước khác... Truyện không có câu nào không cần thiết... ngôn ngữ tinh xảo đến mức có thể nghĩ rằng không ai có thể viết tốt hơn... Nhiều câu trong Truyện Kiều đã trở thành thành ngôn cổ điển.
Thời kỳ đó, một số học giả yêu nước còn quá mạnh mẽ về tư tưởng lễ giáo cũ, coi Truyện Kiều là 'văn phẩm dâm', coi việc Phạm Quỳnh ca ngợi Truyện Kiều là mưu mô của thực dân Pháp để làm cho thanh niên ta bị lạc hướng và sao lãng nhiệm vụ cứu nước. Trong thực tế, Phạm Quỳnh đã tiên đoán thời đại, đánh giá chính xác tác phẩm này. Điều này chứng tỏ ông là một nhà uyên bác và yêu nước.
Trong lễ kỷ niệm ngày sinh của Nguyễn Du vào năm 1924, ông trọng thể tuyên bố: Truyện Kiều còn tồn tại, tiếng Việt còn tồn tại; tiếng Việt còn tồn tại, nước ta còn tồn tại! Nói một cách khác, Phạm Quỳnh cam kết bảo tồn Tổ quốc chúng ta thông qua ngôn ngữ.
Tin tức tôn vinh tiếng ta cùng nước ta vẫn luôn sống mãi! – câu chân lý bất diệt đó đã được cả người Việt Nam chứng minh một cách vĩ đại nhất. Trải qua hàng nghìn năm bị chi phối, quốc gia ta đã trở thành một phần của Trung Quốc, tổ tiên chúng ta phải sử dụng chữ Hán, nhưng nhờ giữ gìn nguyên bản tiếng mẹ đẻ mà dân tộc ta không bị đồng nhất, đất nước ta vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Vị thượng chi Phạm Quỳnh đã dẫn đầu hiểu biết và cống hiến cuộc đời mình thực hiện câu chân lý trên. Ông thực sự là một học giả yêu nước và có tinh thần uyên bác hiếm có của dân tộc ta.
Theo thông tin từ Văn hóa Nghệ An
Nguyễn Hải Hoành (nhà dịch, nhà nghiên cứu tự do)
Chú thích:
Tham khảo thêm tại [1] Phạm Quỳnh từ năm 15 tuổi đã tham gia làm phụ tá tại Viện Viễn Đông Bác cổ, cơ quan nghiên cứu khoa học hàng đầu của Pháp ở Đông Dương; 21 tuổi đã dịch và xuất bản các bài văn học, triết học trên Đông Dương tạp chí.
Những câu chữ nghiêng trong bài viết nếu không được ghi chú là từ Phạm Quỳnh, được trích từ Thượng Chi Văn tập.
Trương Chính: Một số quan điểm thêm về cuộc tranh luận xung quanh Truyện Kiều vào khoảng năm 1924.
Bùi Duy Tân: Vị thế của văn học Hán Việt qua một cuộc tranh luận quan trọng.
Nguyễn Văn Huyên: Văn hóa Việt Nam (phần XII).
Dương Quảng Hàm: Lược sử văn học Việt Nam, năm 1941.