"AI hiện nay có khả năng đảm nhận 60-70% công việc lập trình. Điều này đồng nghĩa với việc chỉ cần 4 người để hoàn thành công việc của 10 người trước đây", báo cáo của Gupta nhấn mạnh.

Tại Nhật Bản, "Thế hệ mất mát" (Lost Generation) là cụm từ dùng để chỉ những người tốt nghiệp trong thời kỳ khủng hoảng việc làm kéo dài từ cuối thập niên 1990 đến đầu những năm 2000. Nhiều người trong số họ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm công việc ổn định sau khi bong bóng kinh tế vỡ vào những năm 1980 do giá bất động sản và chứng khoán tăng đột biến.
Khi nền kinh tế phục hồi, thế hệ này đã quá tuổi để thăng tiến và nhanh chóng bị bỏ lại phía sau bởi lớp trẻ. Hậu quả là một tầng lớp chăm chỉ học hành và làm việc cần mẫn giờ đây chỉ có thể làm các công việc bán thời gian hoặc sự nghiệp dang dở dù đã bước vào tuổi trung niên, thua kém cả lớp trẻ.
Hiện nay, một thế hệ mất mát mới đang xuất hiện trên toàn cầu, không phải do khủng hoảng bất động sản mà do làn sóng đào tạo đại học tràn lan tại nhiều quốc gia, tạo ra những cử nhân thiếu kỹ năng cần thiết mà doanh nghiệp đòi hỏi.
Khi trí tuệ nhân tạo (AI) bùng nổ, các doanh nghiệp cắt giảm nhân sự hàng loạt, vấn đề này trở thành giọt nước làm tràn ly.

Khi AI biết lập trình
Theo Wall Street Journal (WSJ), trong hai thập kỷ qua, một cuộc cách mạng giáo dục đã lan rộng khắp các nền kinh tế đang phát triển. Hàng nghìn trường đại học mọc lên khắp các thành phố, trong khi nông dân, công nhân và người nghèo dành dụm tiền cho con cái học đại học với hy vọng trở thành kỹ sư, luật sư, bác sĩ...
Tuy nhiên, thực tế không như mong đợi khi lượng sinh viên tốt nghiệp tràn ngập các nền kinh tế mới nổi, nơi không đủ việc làm chất lượng cao, những vị trí văn phòng nhàn hạ với mức lương hấp dẫn để đáp ứng số lượng cử nhân ra trường.
Hậu quả là hàng loạt sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp và chán nản, kìm hãm sự phát triển của tầng lớp trung lưu trong xã hội.
Sự bùng nổ của trí tuệ nhân tạo (AI) càng làm tình hình trở nên tồi tệ hơn khi các ứng dụng công nghệ có thể thay thế con người trong nhiều công việc từ đơn giản đến phức tạp. Điều này khiến doanh nghiệp không còn cần lao động thiếu kinh nghiệm, dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng.
Báo cáo từ AIMaps cho biết số lượng việc làm trong lĩnh vực AI tại Mỹ đã tăng 68% từ cuối năm 2022 đến nay, nhưng tổng số việc làm trong ngành công nghệ lại giảm 17% trong cùng kỳ.
Theo số liệu từ ZipRecruiter, số lượng bài đăng tuyển dụng liên quan đến AI đã tăng 124% từ năm 2023 đến cuối năm 2024.
Tương tự, Gupta cho biết số lượng bài đăng tuyển dụng trong ngành công nghệ thông tin đã giảm 22% từ cuối năm 2022.
"AI hiện nay có khả năng đảm nhận 60-70% công việc lập trình. Điều này đồng nghĩa với việc chỉ cần 4 người để hoàn thành công việc của 10 người trước đây", báo cáo của Gupta nhấn mạnh.
Theo khảo sát của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), 41% chủ doanh nghiệp có kế hoạch cắt giảm nhân sự để áp dụng AI từ nay đến năm 2030.
Lý do khá rõ ràng, nghiên cứu từ Ernst&Young cho thấy 97% giám đốc điều hành tại các doanh nghiệp đầu tư vào AI đã chứng kiến những kết quả tích cực.
Tuy nhiên, đây chỉ là giọt nước làm tràn ly trong một giai đoạn dài khi người lao động chạy theo bằng cấp mà quên mất nhu cầu thực sự của doanh nghiệp.

Tầng lớp vô dụng?
Báo cáo tháng 8/2024 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thuộc Liên Hợp Quốc cho thấy tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên có trình độ tại các nước đang phát triển cao gấp 2-3 lần so với các nền kinh tế giàu có.
Tại các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình thấp, hơn 1/5 số người dưới 30 tuổi có bằng đại học đang rơi vào tình trạng thất nghiệp.
Theo đánh giá của ILO, tại các quốc gia này, thanh niên tốt nghiệp đại học thậm chí có nguy cơ thất nghiệp cao hơn so với những lao động chỉ có trình độ học vấn cơ bản.
Nhiều chuyên gia nhận định tình trạng này càng trở nên nghiêm trọng khi hàng loạt trường đại học chất lượng thấp được thành lập để đáp ứng mong muốn có bằng cấp của nhiều gia đình với hy vọng thay đổi địa vị xã hội.
Những trường đại học này đào tạo ra các sinh viên thiếu kinh nghiệm nhưng lại khao khát các vị trí công việc "sang trọng", họ không có những kỹ năng mà doanh nghiệp yêu cầu và kết quả là phải chấp nhận làm việc bán thời gian hoặc thất nghiệp.
"Kỳ vọng vào các công việc văn phòng ngày càng tăng, nhưng chúng không tương xứng với kỹ năng mà sinh viên có được sau khi tốt nghiệp", giáo sư kinh tế Karthik Muralidharan từ Đại học California San Diego nhận định.
Khi tầng lớp lao động có trình độ nhưng thiếu kỹ năng cần thiết này thất nghiệp, chán nản và trở thành một tầng lớp "vô dụng", họ thường từ bỏ ước mơ, sống không mục đích, chấp nhận công việc đơn giản hoặc tìm cách ra nước ngoài để lập nghiệp.
Trong khi tầng lớp "nằm thẳng" tại Trung Quốc là ví dụ điển hình cho những người có trình độ nhưng không thể tìm được công việc mơ ước và từ bỏ sự nghiệp, thì Mỹ lại là điểm đến lý tưởng để các cử nhân tìm kiếm cơ hội đổi đời.
Báo cáo của nhà nhân khẩu học Jeff Passel từ Viện Pew Research cho thấy 36% số người nhập cư bất hợp pháp vào Mỹ năm 2022 trong độ tuổi 25-64 có bằng đại học trở lên, cao hơn so với con số 17% vào năm 2007.
Tình trạng tồi tệ hơn khi những lao động có trình độ nhưng thất nghiệp đang trì hoãn việc kết hôn và sinh con, góp phần làm gia tăng áp lực lão hóa dân số và thiếu hụt lao động toàn cầu, đồng thời ảnh hưởng tiêu cực đến sức tiêu dùng.

Theo WSJ, sau thời gian dài thất nghiệp, nhiều cử nhân thường chấp nhận các công việc lương thấp như bán lẻ hoặc lái taxi, nơi họ đóng góp rất ít cho nền kinh tế toàn cầu.
Tại Trung Quốc, số liệu chính thức cho thấy tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên năm nay là khoảng 15%, với nhiều cử nhân đại học trở về nhà sống phụ thuộc vào cha mẹ, chăm sóc gia đình để nhận trợ cấp tài chính.
Sa sút chất lượng giáo dục
Trong nhiều năm, tầng lớp tri thức được xem là tinh hoa của quốc gia, nguồn lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhiều chuyên gia cảnh báo rằng nếu chính phủ không đầu tư vào việc phát triển đội ngũ thanh niên có trình độ cao, họ sẽ bị tụt hậu.
Các bậc phụ huynh cũng quyết tâm cho con cái học đại học với hy vọng thay đổi cuộc sống.
Đến những năm 2000, nhiều ngành sản xuất tại các nước đang phát triển đã chậm lại hoặc suy thoái, một hiện tượng được gọi là "Phi công nghiệp hóa sớm" (Premature Deindustrialization).
Kết quả là những công việc chất lượng thường chỉ có trong chính phủ, trường học hoặc ngành công nghệ, và tất cả đều yêu cầu bằng cấp đại học.
Với sự hạn chế của các trường đại học công lập, chính phủ đã cho phép mở rộng hệ thống đại học tư nhân. Những trường này nhận được rất ít hoặc không có hỗ trợ tài chính từ chính phủ và cũng khó tăng học phí vì đối tượng sinh viên chủ yếu là người nghèo.
Thay vào đó, nhiều trường kiếm lợi bằng cách giảm tiêu chuẩn tuyển sinh và tăng số lượng sinh viên. Hậu quả là chất lượng đào tạo giảm sút, sinh viên thiếu những kỹ năng cần thiết mà doanh nghiệp yêu cầu.
Theo báo cáo của Higher Education Strategy Associates, từ năm 2006 đến 2018, số lượng sinh viên theo học đại học tại các nước đang phát triển đã tăng gần gấp đôi, từ 79 triệu lên 150 triệu người.
Đến năm 2018, khoảng 75% sinh viên đại học trên toàn cầu sống ở các nền kinh tế mới nổi, tăng đáng kể so với mức 50% vào năm 2006.
Ấn Độ là ví dụ điển hình cho sự suy giảm chất lượng giáo dục đại học. Việc mở rộng chưa từng có các trường đại học trong 20 năm qua đã làm tăng gấp ba tỷ lệ người trẻ có bằng đại học.
Mặc dù nhiều cử nhân Ấn Độ là những kỹ sư và kỹ thuật viên tài năng, nhưng cũng có vô số sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp do không đáp ứng được yêu cầu kỹ năng của thị trường.
Theo báo cáo của ILO vào tháng 3/2024, khoảng 29% lao động dưới 30 tuổi có bằng cử nhân tại Ấn Độ đang thất nghiệp, cao gấp 9 lần so với tỷ lệ thất nghiệp của những người chỉ có trình độ tiểu học.
Anh Manikanta M là một ví dụ điển hình khi tốt nghiệp cử nhân công nghệ tại một trường cao đẳng ở Bengaluru với ước mơ trở thành kỹ sư điện tử. Tuy nhiên, sau một năm gửi hàng chục đơn xin việc và đi phỏng vấn khắp nơi, chàng trai 26 tuổi vẫn chưa tìm được việc làm.

Cuối cùng, Manikanta buộc phải nhận công việc điều phối viên vận tải tại một công ty công nghệ với mức lương sau thuế chỉ 350 USD/tháng.
"Gia đình tôi đã cố gắng hết sức để tôi có thể học đại học và trở thành kỹ sư, nhưng việc không thể tìm được công việc mơ ước là điều tồi tệ nhất đối với một gia đình trung lưu như chúng tôi", Manikanta chia sẻ một cách đầy chua xót.
Tốt nghiệp xong làm gì?
Tại Mông Cổ, nhiều gia đình làm nghề chăn nuôi cũng nuôi hy vọng con cái sẽ thoát khỏi cuộc sống khó khăn bằng cách học hành thành tài.
Nghiên cứu của Orkhon Gantogtokh, nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học British Columbia, cho thấy đến năm 2022, Mông Cổ là một trong những quốc gia có số lượng học viện đại học bình quân đầu người cao nhất thế giới.
Hậu quả là các trường đại học tại Mông Cổ tham gia vào cuộc cạnh tranh giảm giá, cắt giảm học phí để thu hút sinh viên, dẫn đến chất lượng đào tạo bị suy giảm nghiêm trọng.
"Các trường đại học đã trở thành những ‘lò cấp bằng’ mọc lên khắp nơi", Orkhon chia sẻ một cách đầy chua xót.
Mặc dù nền kinh tế Mông Cổ chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, nhiều sinh viên lại tốt nghiệp các ngành như báo chí hoặc luật, vốn có ít cơ hội việc làm.
Ngay cả các công ty luật tại đây cũng gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thực tập sinh đủ kỹ năng do chất lượng giáo dục đại học quá thấp.
Cô Azjargal Demberel, xuất thân từ một gia đình chăn bò với tuổi thơ vất vả vắt sữa trong cái lạnh buốt giá, đã chuyển đến thủ đô Ulaanbaatar để theo học ngành báo chí. Hai người em của cô cũng tốt nghiệp ngành y và luật.
Tuy nhiên, cả ba người đều không tìm được việc làm trong lĩnh vực mình học. Azjargal từng làm báo nhưng sau đó nghỉ việc và hiện đang bán các sản phẩm gia dụng của Amway. Hai người em của cô đã sang Hàn Quốc du học thêm và làm việc bán thời gian tại một công ty chuyển nhà.
Tại Mỹ Latinh, nơi tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên đã giảm 4,5 điểm phần trăm xuống còn 13,4% vào năm ngoái, nhiều cử nhân vẫn gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm.
Cô Camila Ortiz Caram tốt nghiệp thiết kế công nghiệp tại Đại học Buenos Aires ở Argentina năm 2023 sau 6 năm học vẫn phải ở nhà cùng bố mẹ vì khó kiếm việc làm. Cuối cùng cô gái 26 tuổi này phải đi làm nhân viên bán nước hoa.
Để làm đẹp hồ sơ, cô Caram còn làm trợ giảng không lương tại một trường đại học.
"Tốt nghiệp xong tôi đã phải tự hỏi: ‘Bây giờ mình nên làm cái gì đây?’", cô Caram ngán ngẩm nói.
Tại Nam Phi, sinh viên tốt nghiệp đại học ít có nguy cơ thất nghiệp hơn so với tầng lớp lao động nói chung, thế nhưng tỷ lệ thất nghiệp của cử nhân lại tăng gấp đôi kể từ năm 2021 lên 12%.

Ví dụ cô Rea Mokhoantle, cử nhân 27 tuổi không thể dùng tấm bằng chuyên ngành nhân lực của mình sau khi tốt nghiệp mà lại đang làm việc cho một nền tảng trực tuyến.
"Tôi thực sự kinh ngạc khi bằng cấp của tôi lại khó xin việc đúng ngành đến vậy, thế nhưng chẳng ai nói với chúng tôi điều đó khi còn đi học", cô Mokhoantle than thở.
Giáo sư Philip Altbach của trường đại học Boston nhận định cánh cửa đại học đang được mở ra quá nhanh mà không duy trì các tiêu chuẩn vốn có. Giờ đây muốn kìm hãm lại thì đã quá muộn.
Theo thông tin từ Wall Street Journal (WSJ).