Tại các đền thờ, không khó để bắt gặp cung thờ Chúa Sơn Trang. Nhiều người thường đến đây để dâng lễ, đọc văn khấn với mong muốn cầu bình an và tài lộc. Vậy cúng Sơn Trang là gì và cách sắp xếp mâm lễ ra sao? Hãy cùng Mytour khám phá chi tiết trong bài viết dưới đây!
Cúng Sơn Trang là gì? Khám phá ý nghĩa, cách thức và bài văn khấn chuẩn.I. Nguồn gốc tục thờ cúng Sơn Trang
Trước khi khám phá mâm lễ cúng Sơn Trang cần những gì, hãy cùng tìm hiểu về nguồn gốc của tục thờ cúng này. Đây là một phong tục cổ xưa của người Việt, bắt nguồn từ thời kỳ nước Âu Lạc cách đây khoảng 2000 năm.
Tục thờ cúng Sơn Trang đã tồn tại từ rất lâu trong lịch sửCúng Sơn Trang là một nghi lễ riêng biệt, không thuộc hệ thống tín ngưỡng Tứ Phủ. Tứ Phủ chỉ xuất hiện cách đây khoảng 600 năm, gắn liền với sự tích Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Nhiều tài liệu lịch sử còn cho rằng tục thờ Tứ Phủ có nguồn gốc sâu xa từ tục thờ Sơn Trang.
II. Chúa Sơn Trang là ai?
Theo phong tục thờ cúng Sơn Trang hiện nay, tại cung Sơn Trang có Tam Tòa Sơn Trang bao gồm:
- Sơn Trang Đệ Nhất: Vị này được biết đến với danh hiệu Thanh Sơn Đại Vương Bạch Anh Quản Trưởng Sơn Lâm Công Chúa Lê Mại Đại Vương.
- Sơn Trang Đệ Nhị: Danh hiệu là Diệu Tín Thiền Sư La Bình Công Chúa.
- Sơn Trang Đệ Tam: Được gọi là Diệu Nghĩa Thiền Sư Quế Hoa Công Chúa.
Chúa Sơn Trang được coi là hiện thân của Mẫu Thượng Ngàn.Ngoài ra, một số nơi còn quan niệm Chúa Sơn Trang còn được gọi là Chúa Mường, được thờ cúng từ thời vua Hùng. Theo một số tài liệu, Chúa Sơn Trang thực chất là Mẫu Đệ Tứ Nhạc Tiên, kế thừa sau Tam Tòa Thánh Mẫu. Việc thờ cúng này thể hiện sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc tại Việt Nam, cùng tôn thờ một vị thần linh.
Một số nguồn tin khác còn cho rằng Chúa Sơn Trang chính là Cô Đôi Thượng Ngàn, hay còn được biết đến là Mẫu Thượng Ngàn, vì ngài sống trong động Sơn Trang và là hiện thân của Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn. Dù được xem là Mẫu Đệ Tứ hay Đệ Nhị, ngài vẫn hoàn toàn khác biệt với Mẫu Địa trong hệ thống Tứ Phủ Thánh Mẫu.
Có thể thấy, danh tính thực sự của Chúa Sơn Trang vẫn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp chính xác. Tuy nhiên, tục thờ Sơn Trang hiện nay đã trở thành một phần không thể thiếu trong tín ngưỡng thờ Tứ Phủ.
III. Ý nghĩa của việc cúng Sơn Trang
Ý nghĩa sâu sắc của lễ cúng Sơn Trang trong văn hóa người ViệtLễ cúng Sơn Trang mang ý nghĩa gì đối với đời sống vật chất và tinh thần của người dân Việt Nam? Tục lệ này có thể bắt nguồn từ thời điểm Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện, khi triều đình nhà Lê phong tặng Chúa Sơn Trang danh hiệu Lê Mại Đại Vương. Chúa Sơn Trang trở thành Mẫu Thượng Ngàn, đứng ở vị trí thứ hai trong Tam Tòa Thánh Mẫu. Trong tín ngưỡng Tứ Phủ, đây là sự hòa quyện giữa hai tục thờ Mẫu Liễu Hạnh và Chúa Sơn Trang.
Việc thờ cúng Sơn Trang thể hiện sự tôn kính Mẹ rừng, tưởng nhớ về nguồn gốc thiên nhiên sông núi. Đồng thời, đây cũng là cách để ghi nhớ công ơn của các vị thần linh đã phù hộ cho đất nước được bình yên, nhân dân no ấm, mùa màng tươi tốt,…
IV. Mâm cúng Sơn Trang gồm những gì?
Tập tục cúng Sơn Trang đã tồn tại từ lâu đời, vì vậy việc chuẩn bị mâm lễ cúng là vô cùng quan trọng. Hãy cùng Mytour khám phá chi tiết những lễ vật cần có trong mâm cúng Sơn Trang nhé!
1. Mâm Sơn Trang đơn giản
Mâm lễ cúng Sơn Trang đơn giản, dễ dàng chuẩn bị trong các dịp lễ quan trọngKhi đến đền thờ Sơn Trang để cầu bình an và tài lộc từ Chúa Sơn Trang, bạn cần biết cách chuẩn bị mâm lễ sao cho đầy đủ và chỉn chu. Những vật phẩm không thể thiếu trên mâm lễ bao gồm:
- Hương, nhang
- Đèn cày, đèn ly
- Bình hoa tươi
- Dĩa trái cây tươi
- Xôi, chè
Tại khu vực chính điện thờ Phật, bạn không nên bày biện lễ mặn mà chỉ nên dùng đồ chay thanh tịnh, sạch sẽ để thể hiện lòng thành kính tối đa.
2. Mâm lễ mặn cúng Sơn Trang
Khi cúng Sơn Trang, bạn có thể dùng lễ mặn nhưng cần đảm bảo mỗi vật phẩm đều có đủ 15 phần.Khi chuẩn bị mâm lễ mặn cúng Sơn Trang, bạn có thể theo truyền thống người Việt với cỗ Tam Sênh gồm gà, tôm, thịt heo hoặc các đặc sản như cua, ốc, lươn, ớt, chanh,… Bên cạnh đó, xôi nếp cẩm và chè cũng có thể được bày lên mâm. Điều quan trọng là mỗi vật phẩm phải tuân theo quy tắc số 15, cụ thể như sau:
- 15 con ốc, 15 con cua
- 15 quả chanh, 15 trái ớt hoặc chỉ cần 1 quả nhưng được cắt thành 15 phần,…
Con số 15 tượng trưng cho 15 vị thần được thờ tại cung Sơn Trang, bao gồm 1 vị Chúa, 2 vị Chư hầu cận kề và 12 cô Sơn Trang.
V. Bài văn khấn cúng Sơn Trang
Bài văn khấn cúng Sơn TrangĐể buổi lễ cúng Sơn Trang diễn ra trọn vẹn và trang nghiêm, bạn cần chuẩn bị bài văn khấn phù hợp. Hiện nay, có nhiều bài văn khấn được sử dụng, và Mytour đã chọn lọc hai mẫu phổ biến nhất dưới đây để bạn tham khảo:
1. Bài 1: Văn khấn cúng Sơn Trang đơn giản, hiệu quả
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Con kính lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, cùng Tam cõi Hội Đồng.
Con thành kính lạy Đức Chúa Thượng Ngàn, đấng tối cao của núi rừng, công chúa Lê Mại Đại Vương ngự tại điện ngọc.
Con kính lạy Đức Thượng Ngàn, chúa tể Mị Nương Quế Hoa công chúa, bậc tối linh thiêng, cai quản ba mươi sáu cửa rừng và mười hai cửa biển.
Con kính lạy chư vị Tiên, Thánh, Thần, Bát bộ Sơn trang, mười hai Tiên Nàng, cùng các Thánh cô, Thánh cậu, Ngũ hổ Bạch xà Đại tướng.
Hương tử con là…………………….
Ngụ tại………………………..
Nhân dịp……………, chúng con thành tâm đến phủ Chúa trên ngàn, đốt nén hương lòng dâng lễ vật, một dạ chí thành, chắp tay cầu nguyện. Kính mong lượng cả bao dung, thể hiện đức hiếu sinh, phù hộ độ trì cho chúng con cùng gia quyến được khỏe mạnh, phúc thọ an khang, lộc tài dồi dào, công việc thuận lợi, vạn sự như ý.
Chúng con lễ mọn tâm thành, kính xin chứng giám và phù hộ độ trì.
Nguồn tham khảo: Internet
| Tại Đây |
2. Bài 2: Văn khấn cúng Sơn Trang đại khoa chi tiết, đúng đủ nhất
Thỉnh mời Diệu Tín thuyền sư,
Xưa kia tại đất Thổ Mường trang chủ,
Lạng Sơn nơi ấy phong cảnh hữu tình,
Đông Cuông Tuần Quán cảnh trí thanh tao,
Trời Nam giáng xuống khí thiêng anh linh,
Thần nữ đản sinh, ai dám sánh bằng,
Tổ sư nắm giữ phép thuật sơn trang,
Sinh ra một nữ nhi kế thừa truyền thống,
Khi dạo chơi non Đảo Trang Đài,
Khi ngao du sông biển, không sai phép truyền,
Kết bạn cùng các vị quần tiên,
Trắc giáng trước đàn, hiển linh phép thuật,
Mời bà Diệu Nghĩa ẩn mình,
Cùng các tiên nữ hiện linh trước đàn,
Tôi lại xin thỉnh cung tiên các vị,
Vâng mệnh trời cứu giúp muôn dân,
Cô Mường, cô Aí, cô Ân,
Đào Lan, Quế Huệ, Tấn Tần, Trúc Mai,
Đừng sai lời thề đã hứa thuở trước,
Lệnh bài sai, chớ có ngừng nghỉ,
Tính còn õng ẽo thích vui chơi,
Giọng Mường, giọng Thổ những lời khó hiểu,
Mi đá ri kin lao kin lốc,
Mi đá chúc ai thuộc mà nghe,
Gần sông, gần suối, gần khe,
Sơn lâm bát ngát, trà khe thơm ngát,
Tang bồng tình, tình tang bồng tính,
Tang tính tình, bồng tính dạo chơi,
Tri cô trí cố bì bi,
Đàn thông phách quế nơi rừng núi,
Tính hay hầm măng giang măng trúc,
Mi đá xanh cơm lốc vàng loe,
Măng ngâm mắm ngoé chua lòe,
Cơm lam một nắm, nước khe một bầu,
Áo lam Kinh hàng Tầu thấp thoáng,
Yếm sà lê lại mạng đôi bông,
Túi xanh quai nhuộm màu hồng,
Môi thắm má hồng lưng ong dịu dàng,
Mường ơi, mường nghe lời nhắn nhủ,
Đạo sơn trang bí ẩn càng thêm ghê,
Lâm râm thắp ngọn đèn khuya,
Sự tình này chớ để lộ ra ngoài,
Nào các bạo nhà Mường đâu rồi nhỉ,
Mười hai nhà các họ sơn trang,
Rừng xanh trải dài đến tận thượng ngàn,
Thất khe thần nữ hiện về chứng giám,
Kể từ ngày rừng xanh gặp gỡ,
Các cô nàng ân ái đã lâu rồi,
Sớm khuya hương khói đèn dầu,
Nghe lời luyện thỉnh xin mau hiện về,
Nay tín chủ bày biện cỗ bàn,
Đủ hoa nghi lễ vật màu xôi,
Sớ văn dâng tiến đã xong,
Nón hài hình lốt núi thoi tầu bè,
Xin chứng giám chớ hề đạm bạc,
Cho chủ nhân phúc lộc bền lâu,
Từ nay phúc lộc dồi dào,
Đội ơn Tiên chúa muôn đời chứng giám,
Chỉ huy la tật tốc giáng.
Sắc cẩn thỉnh tám tướng sơn trang, cha là Đỗ Đổng mẹ Đặng Thị Tươi, sinh được tám người, đều cùng bạo mãnh, ở châu An Bác giữa làng Thọ Gia, nguyên vốn sinh ra sơn trang Đống Tháp, đêm ngày luyện tập, hay pháp dụng binh, trời chẳng tỏ mình, tử sinh oan thác, hồn siêu phách lạc, mỗi người một phương, sơn trang tổ Mường, Diệu Tín luyện được, người thờ đời trước, gọi phép sơn trang, lòng thành lễ bạc, dâng tiến các chàng, tốc giáng bản đàn chỉ huy là tật tốc giáng.
Thầy nay vâng lệnh Ngọc Hoàng,
Thỉnh mời tám Tướng sơn trang tổ Mường,
Vốn xưa Tướng ngự trên ngàn,
Ở châu An Bác giữa làng Thọ Gia,
Sơn trang Đống Tháp chính là,
Đêm ngày luyện tập phép thuật dụng binh,
Tướng cả tên là Đỗ Trinh,
Giáp dần năm ấy mới sinh ra,
Ngày hai mươi chín tháng ba,
Sinh ra tướng cả ai dám sánh bằng,
Tướng hai Đỗ Triệu uy cường,
Sinh năm bính thìn, tuổi thật thiêng liêng,
Mười bảy tháng sáu ngày này,
Sinh chàng Đỗ Triệu tốt lành biết bao,
Đỗ Hiệu là tướng thứ ba,
Sinh năm mậu ngọ tiết hòa tháng tư,
Ngày hai mươi ba chính cư,
Giáng sinh Hiệu quận tài năng hiền lành,
Thứ tư hiệu Đỗ Trung tên,
Hiện canh thân tuế tướng liền xuất sinh,
Tiết đông tháng chạp dành dành,
Ngày hai mươi bốn đinh ninh chẳng rời,
Thứ năm Đỗ Bích kia ơi,
Sinh năm nhâm tuất chẳng chơi đâu nhỉ,
Thu thiên tháng tám ai qua,
Giữa hôm mồng bảy ấy là Bích sinh,
Thứ sáu Đỗ Trương tính danh,
Hiện năm giáp tý anh linh thật là,
Xuân thiên mạnh nguyệt sinh ra,
Giữa hôm vọng nhật nguyệt ca đương tròn,
Thứ bảy Đỗ Cường ngọ khôn,
Bính dần thái tuế tướng liền mãn thai,
Nhị nguyệt ngày hai mươi hai,
Sinh ra Cường tướng ai ai khiêm nhường,
Thứ tám đến Đỗ Dũng chàng,
Mậu thìn năm ấy mở đường xuất sinh,
Tháng năm đoan ngọ dành dành,
Sinh chàng Đỗ Dũng uy linh thật là,
Tám tướng cùng con một nhà,
Cha là Đỗ Đổng mẹ là Thị Tươi,
Tiếng đồn vang khắp mọi nơi,
Đằng vân giá vũ giáng chơi đàn tràng,
Lại mời Mường Mán các nàng,
Rừng xanh núi đỏ mời nàng về đây,
Đã về chứng giám đàn này,
Giúp việc hộ thày sẽ về sơn lâm,
Có nàng áo trắng quần thâm,
Mặt thời dỗ phất ngằm ngằm da đen,
Đầu thời chuôn chuốt tóc lên,
Hình dung nhan sắc chẳng nên đồng trì,
Tay cầm cành lá dương chi,
Phụ đồng thiếp tính tức thì ngã so,
Rượu tăm uống cạn ba vò,
Tu ma một bát không cho cũng đòi,
Ta làm cho thế gian coi,
Kẻo thế gian cười rằng pháp chẳng thiêng,
Lại mời các bộ lên đường,
Chúa Mường chúa Mán chúa Xiêm về chầu,
Sơn lâm là thú cảnh mầu,
Những non cùng nước đua nhau chơi bời,
Dủ nhau củ sắn củ mài,
Củ lang củ đậu củ khoai đầy ngàn,
Tính hay măng trúc măng giang,
Măng tre măng nứa đầy ngàn mái sim,
Lợn quay, gà hấp, chim hầm,
Kin lao kin khấu thầy khuyên thầy mời,
Trà hô hay gỏi cá tươi,
Gỏi trê, gỏi chép, gỏi mè là ngon,
Cái vò hay đựng rượu hoa,
Kìa nhung kin cấp nọ mỳ phú gia,
Tu mòn tu cáy tu ma,
Tu ly tu cát tu kha tu cù,
Kin lao kin nậm kin phù,
Quả sung quả khế bỏ khô quăng bừa,
Bỏ lăn bỏ lóc đã đầy,
Thấy đáo đường dưới cái mày đem cho,
Thầy nay khuyên triệu đã no,
Sơn trang các tướng khuông phù chứng minh,
Đẳng chư tín chủ lòng thành,
Thọ tăng lộc tiếp gia đình hiển vinh,
Bất đắc cửu đình cấp như luật linh.
Sắc cẩn thỉnh mười hai họ sơn trang, các Mán các Mường Man Di, Lao Hống, lại thỉnh hai ốc, Quảng Hóa, Thuận An, Lưu Cầu, Lam Sơn, Hưng Hóa, quân Mọi, quân Xá, thượng lũng hạ lũng, nào quân đường trong, thượng lộ hạ lộ, nào quân man cố Thái Nguyên, Cao Bằng, Quán Đà, Quán Dòng, tất bắc vai bồng, ma chi ma chất, ma phong chất vất, mi rằng mi cố, cần nung cần lộ, ca lăng kin nậm kin trà, tu cáy tu ma, bì ba bì bục, tôm khô, cá mực, bánh đúc mắn tôm, ếch bén chão chàng, trầu vàng cau phượng, dâng lên chúa thượng, vỏ quạch vỏ chay, các bộ chỉ hay, ớt cay sung khế, hương thơm ngào ngạt, thỉnh các bộ về, hỏa tốc đáo đàn chứng minh công đức là tật tốc giáng. Thầy nay vâng lệnh Ngọc Hoàng
Thỉnh mười hai tướng sơn trang giáng trần
Lại mời nàng Ái nàng Ân
Thỉnh tám tướng Mọi cùng quân Cao Bằng
Phép làm dũng mãnh hung hăng
Mười tám của rừng ai chẳng sợ kinh
Ngày nay đệ tử tâm thành
Xin làm mân cỗ tiến dâng các nàng
Điền kê đem nướng cho vàng
Ốc cua thịt thính cơm lam các mùi
Ngày nay đệ tử thỉnh mời
Thỉnh các nàng xuống về nơi đàn tràng
Ở miền Quảng Hoá, Thuận An
Lam cầu, Hưng Hoá, Tuyên Quang các mường
Lạng Sơn, Tuần Quán, Đông Cuông
Thái Nguyên, Suối Thị, Quán Đà, Cầu Sơn
Thỉnh mời tám tướng cao lơn
Lục la các tướng đáo đàn chưng đây
Núi dùm cô cả thiêng thay
Anh linh giáng ứng về đây ngự đồng
Tài kiêm lục trí thần thông
Sơn lâm các động tung hoành anh linh
Cô đôi Bắc Lệ tàng hình
Tâm thành cầu khẩn hiển linh cô về
Đồng Đăng, Ao Cá là quê
Pháp sư tái thỉnh cô Ba tam kỳ
Thiên Đình, Địa Phủ thông tri
Hình dung nhan sắc mọi bề thanh tân
Tuổi xuân vẻ lại thêm xuân
Thú vui phong cảnh thanh vân chơi bời
Có khi cô hiện ra người
Dậy chim uốn lưỡi dậy người bán buôn
Khi thời dậy vượn du con
Lúc ca lúc hót nỉ non buồn dầu
Dậy loài cầm thú gọi nhau
Nhân gian hữu sự thỉnh cầu lại qua
Thỉnh mời cô Tư ỷ La
Theo hầu vương Mẫu quê nhà Thuận Nam
Mẫu sai cô Tư giáng phàm
Lễ nghi sớ điệp lập đàn mời khuyên
Lại mời các bộ Mường trên
Cô Năm vốn ở Thái Nguyên, Cao Bằng
Tính đành hanh thấy ai lạ mặt
Sai cô hầu đuổi bắt cho mau
Líu lô tiếng mán bảo nhau
Tức thời cô trước cô sau điệu về
Người thôn quê hay là thành thị
Không biết rằng bệnh ý vì đâu
Làm cho chóng mặt nhức đầu
Càng phù càng thuốc càng đau như dần
Hành bệnh nhân thậm chưng là khổ
Uống thuốc trần lại hãm mồ hôi
Bói thời ra quẻ phong lôi
Cô Năm hành bệnh ai coi cho tường
Sắm hình nhân điệp trương thế mệnh
Trả lễ cô thời bệnh mới tan
Thỉnh mời cô Sáu Đồi Ngang
Cùng cô nàng Bẩy Tuyên Quang giáng trần
Pháp đằng vân anh linh biến hoá
Các mán mường mọi xá đều kinh
Thỉnh mời các bộ sơn tinh
Cùng cô nàng Tám anh linh nhiệm mầu
Cao Lan, Mán Mọi sơn đầu
Thần thông lục trí ai hầu giám đương
Thỉnh mời cô Chín Sòng Sơn
Cô Mười chính ở Suối Ngang hiện về
Thú vui là thú sơn khê
Ngàn giang ngàn nứa mọi bề thanh tân
Cô Mười Một ngự đồng nhân
Khi chơi quán Sở lầu Tần ngao du
Quê nhà cô ở trang chu
Dong chơi rừng núi ngao du Mán Mường
Thỉnh cô Mười Hai giáng đàn
Lại xin chứng lễ sơn trang khuyên mời
Độ cho tín chủ mọi người
Già thời sức khoẻ trẻ thời bình an
Thỉnh mời chư vị giáng đàn
Phù trì đệ tử thiên ban thọ trường
Chỉ huy là tật tốc giáng
Sắc triệu thỉnh sơn trang các bộ, châu thổ thượng du, nhớ khi xưa Bạch Hạc Phong Châu, Vĩnh An tỉnh là nơi thác tích, lưu truyền tán tịch chia ở từng phương, chốn sơn lâm châu Thổ Mán Mường, các trang trại tuỳ phương cải hiệu, nào là Hoàng Ma Hà Điếu, Nùng Thái Xá Miêu, tám họ ấy đều, ở miền xứ bắc, đầu khăn ba sắc, mình mặc áo xanh, Mán sơn đầu cùng Mán vẽ mình, Mường xiên tai cùng Mường sỏ mũi, bên cung bên túi, tay lẵng tay dao, tiếng xá tiếng tiêu, tỳ lô bắc lộ, tính tình gió có, măng trúc măng giang, gạo đen gạo vàng, cơm lam thịt thính, nay tôi tái thỉnh, tứ tướng thổ lang, bốn họ sơn trang, Đinh Cao Quách Bạch, cung đàn lá phách, rừng quế rừng thông, tình tính tang bồng, chim kêu vượn hót, thú vui cảnh tốt, thong thả dạo chơi, Yên Bái Lao Cai, Cao Bằng Bảo Lạc, khi chơi Phố Cát, lúc xuống Xiêm Lao, Thái Lạng Tuyên Cao, Đông Cuông Tuần Quán, Tam Kỳ Lục Ngạn, Bắc Lệ Bảo Hà, núi Dùm ỷ La, Thưởng Châu Điện Lệ, lại thỉnh các tướng, không Mẹ mà chẳng có Cha, nào ai sinh ra, lại có tên tuổi, ở những ngàn núi, khe lạch hốc hang, tìm bắt chão chàng, cùng là ếch nhái, hoá hình trăm vẻ, phép tắc mọi tài, Tướng chẳng như ai thế gian hoà vậy, Quỷ chẳng phải Quỷ, Ma chẳng phải Ma, lông lá mọc ra, đầy mình trông lạ, xương đồng gan đá, pháp tắc vô song, Phật có sắc phong, tự nhiên thượng Thánh, tàng hình ẩn ảnh, thực tướng sơn trang, ở hốc ở hang, nhường ngôi chính vị, thu âm binh khí, khắp hết mọi nơi, thượng tự trên Trời, dưới chí Sa Bà thế giới, Thầy thỉnh thời tới, Thầy luyện thời về, đêm đêm ngồi bóng thông ngọn núi, tay cầm gậy lụi, đủng đỉnh dong chơi, hỡi tướng ta ơi, giáng lâm đàn sở. Là tật tốc giáng.
Thầy sai các tướng Sơn Trang,
Cùng nàng Ma Xó mới nàng Mai Hoa,
Thần thông phép nghiệm mở ra,
Ma rừng Ma núi cùng hoà đến đây,
Lệnh truyền khắp cả đông tây,
Anh linh tốc giáng về đây ngự đồng,
Tướng thanh tân đàn vô tang tính,
Quen cơm Lam thịt thính nem chua,
Đưa tay đàn gẩy sênh sô,
Tiếng nói líu lắt líu lô líu lường,
Mường hỡi Mường nghe lời nhủ thực,
Thuốc a nương là bạn vui chơi,
Cây cao bóng mát nghi ngơi,
Non xanh rừng thẳm là nơi tung hoành,
Dạo bốn phương đường đi lối lại,
Tối lại về am cỏ lều tranh,
Sơn lâm vắng vẻ quanh thành,
Bằng mi họp mặt ả anh dịu dàng,
Quần là áo lượt điểm trang,
Hài hoa lược dắt đảm đang trâm cài,
Thong dung tiếng chim kêu vượn hót,
Đầu sườn non khoan nhặt vui thay,
Trên ngàn gió thổi dung cây,
Dưới suối nước chảy cá vây đầu ghềnh,
Khôn thiêng hiển hiện cho nhanh,
Hưởng mùi thịt thính cơm lam măng rừng,
Ốc Cua Tôm Cá tiến dâng,
Nón chiêng hài sảo núi dùm cây xanh,
Ngày nay đệ tử lòng thành,
Thỉnh mời các tướng anh linh giáng đàn,
Hộ cho tín chủ bình an,
Thọ tăng lộc tiếp muôn vàn ơn sâu,
Bất đắc cửu đình cấp như luật linh.
( Nếu có tượng hình voi ngựa thì làm phép khai quang )
Ngũ nhãn liên miên mới điểm khai Tam tinh chiếu diệu ảnh lâu đài Ba triện hương trường thư nhị tự Một bầu nước ngọc sái tam thai Đà lâu cung nguyệt soi muôn dặm Đứng bóng nhân gian thẳm đất trời Vằng vặc nhờ gương soi tứ phủ Quang khai vì có sư Như Lai Thư vào chén nước Ngũ vị :
(Phật Pháp Tăng Bảo cửu long thủy)
Đại khai trí kính minh như nhật
Thước phá vi trần thế giới trung
Nhất điểm liễu nhiên siêu bách ức
Thiên sai vạn biệt tổng viên thông
Thư vào Gương: (Quang minh biến chiếu)
Úm tác sô tác sô tam mãn đá tác sô đà mẫu tuất nẫm lị duệ sa hạ ( 3 biến ) Tuy nhiên ngũ nhãn thông quang chiếu
Nhân tư bệnh mục kiến không hoa
Kim nhật hoàn cừ cựu quang thể
Bích mâu sán sán chiếu trần sa
Thư vào Gương: (tả Phất, hữu Phút)
Dương chi phất động sinh minh tĩnh
Tuệ thuỷ trừng thanh biểu định tâm
Pháp sự gia trì tăng chính giới
Quyên trừ chúng lý tưởng vưu thâm.
Cầm cành sái tịnh đọc chú:
Thanh thanh chi thủy, liểu liểu hoa khai, trung tàng Bắc Đẩu, nội ẩn Tam Thai, Thần thuỷ giải uế hoạ khứ phúc lai,
Nhất trích sái Thiên Thiên thanh
Nhị trích sái Địa Địa linh
Tam trích sái Nhân Nhân tràng sinh
Tứ trích sái Quỷ Quỷ tiềm hình
Ngũ trích sái Tà Tà tẩu tán
Lục trích sái ban ban thanh tịnh
Nam mô tát đá nẫm tam diểu tam bồ đà câu chi
nẫm đát điệt tha. Án chiết lệ chủ lệ chuẩn đề sa bà ha. ( 3 biến )
Phục dĩ: Thiên địa an bài, phương ngung ký định, thượng hạ đồng phân, vạn bách tiêu tai độ ách, lợi vật an nhân, phán thiên địa chi sơ phân, định ngũ hành chi vi thủ, các các chí thành nhất tâm đỉnh lễ.(khai Thánh)
Phụng thỉnh Như Lai điểm khai Thiên nhãn – Thiên nhãn chiếu quang minh
Phụng thỉnh Như Lai điểm khai Nhục nhãn – Nhục nhãn chiếu quang minh
Phụng thỉnh Như Lai điểm khai Pháp nhãn – Pháp nhãn chiếu quang minh
Phụng thỉnh Như Lai điểm khai Tuệ nhãn – Tuệ nhãn chiếu quang minh
Phụng thỉnh Như Lai điểm khai Thần nhãn – Thần nhãn chiếu quang minh
Thiên nhãn thông phi ngại, Nhục nhãn ngại phi thông, Pháp nhãn do quan tục, Tuệ nhãn trực duyên không, Thần nhãn như thiên nhật, chiếu dị thể hoàn đồng, viên minh pháp giới nội, vô xứ bất hàm dung, nhân nhân giai cụ túc, vật vật tổng viên thông, đỉnh môn khai điểm xứ, tòng giáo hoá mãn không. (khai hình)
Khai Nhãn Nhãn quang minh, khai Nhĩ Nhĩ văn thanh, khai Tỵ Tỵ thông hinh, khai Khẩu Khẩu năng thuyết, khai Tâm Tâm bình chính, khai Túc Túc bộ hành. Khai Đầu Đầu đội ngất Trời, khai hai con Mắt Mắt coi trừng trừng, khai Chân Chân bước lưng lưng, khai Tay Tay cầm, khai Tai Tai nghe, khai Mũi Mũi thở tức thì, khai Mồm Mồm nói vân vi mọi điều. (khai vật)
Khai Nhãn Nhãn quang minh, khai Nhĩ Nhĩ văn thanh, khai Tỵ Tỵ thông hinh, khai Khẩu Khẩu năng thực, khai Tâm Tâm bình chính, khai Túc Túc bộ hành Dong nhan thậm kỳ diệu, quang minh chiếu thập phương, ngã tích tằng cúng dạng, kim phục hoàn thân cận, Thánh Chúa thiên trung vương, ca lăng tần già thanh, từ bi mẫn chúng sinh. Khai Nhãn Nhãn quang minh, khai Nhĩ Nhĩ văn thanh, khai Tỵ Tỵ thông hinh, khai Khẩu Khẩu năng thuyết, khai Tâm Tâm bình chính, khai Túc Túc bộ hành, cố ngã kim đỉnh lễ. Nam mô khai bảo kính bồ tát – Ma Ha Tát Tiên Chúa tòng không lai giáng hạ Sơn Trang bộ chúng phó đàn diên Tùy kỳ khẩn đảo vi ân cần Phủ giáng uy quang an pháp toạ
Nam mô an pháp toạ bồ tát – Ma Ha Tát ( 3 biến )
Khất Âm Dương nhập hiến
Thượng lai an toạ chân ngôn tuyên dương dĩ kính chúng đẳng cụ hữu tạp bàn trai soạn thượng hiến Tiên từ phủ thùy nạp thụ giáo hữu biến thực chân ngôn cẩn đương trì tụng. Nam mô tát phạ đát tha, nga đá phạ rô chỉ đế, án tam bạt la, tam bạt la hồng.( 3 biến ) ‘
Nam mô tô rô bà ra, đát tha nga đá ra, đát điệt tha án tô rô tô rô, bát la tô rô, bát la tô rô sa bà ha. ( 3 biến )
Vô lượng nhân duyên nhất thiết cúng Phổ thí pháp giới chư chúng sinh Nhược dĩ hương hoa phổ cúng dàng Duy năng thành tựu Phật công đức Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhật la hồng. ( 7 biến )
Nam mô phổ cúng dạng bồ tát – Ma Ha Tát ( 3 biến )
Thần quang bất muội Chúa đức viên minh cụ hữu sớ văn cẩn đương tuyên đọc Đọc sớ xong nếu có khất kiều thì phải để lại các giá về chứng, hồi hướng lễ tạ. Thượng lai hiến cúng công đức vô hạn thù thắng lương nhân khể thủ hoà nam tam tôn thánh chúng.
Kiền thành tạ lễ cúc cung bái.
Cúng Sơn Trang đại khoa hoàn.
| Tại Đây |
Nguồn tham khảo: Internet
Có thể thấy, cúng Sơn Trang là một tập tục cổ xưa nhưng vẫn còn được lưu giữ và truyền bá cho đến ngày nay. Người ta thường cúng Sơn Trang vào những ngày đầu năm mới hoặc khi có duyên ghé thăm đền thờ Tứ Phủ. Người dân cúng lễ này chỉ mong cầu bình an gia đạo, tài lộc và may mắn đến với mình.
