Các biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong Chương 8 của Bộ luật Tố tụng Dân sự Việt Nam (BLTTDS), bao gồm 28 điều khoản (từ Điều 99 đến Điều 126). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để Toà án quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của các bên đương sự, bảo vệ chứng cứ, và đảm bảo quá trình xét xử cũng như thi hành án.
Để triển khai các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự về biện pháp khẩn cấp tạm thời, ngày 27 tháng 4 năm 2005, Hội đồng Thẩm phán Toà án Nhân dân Tối cao đã ban hành Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP, hướng dẫn thi hành các quy định tại Chương VIII của Bộ luật này. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thực tiễn vẫn gặp phải một số vấn đề, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền tiếp tục nghiên cứu và bổ sung hướng dẫn.
1. Về tính cấp bách của các biện pháp cần được áp dụng
Một điểm tiến bộ đáng chú ý của Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) hiện nay là việc mở rộng phạm vi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Cụ thể, theo khoản 2 Điều 99 BLTTDS, “Trong trường hợp khẩn cấp, cần bảo vệ chứng cứ hoặc ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Toà án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của Bộ luật này cùng lúc với việc nộp đơn khởi kiện cho Toà án.”
Tuy nhiên, theo khoản 3 Điều 117 BLTTDS, “Khi nhận được đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo, Chánh án Toà án chỉ định ngay một Thẩm phán thụ lý và giải quyết đơn yêu cầu. Thẩm phán phải ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong vòng 48 giờ kể từ khi nhận đơn yêu cầu. Nếu không chấp nhận yêu cầu, Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do từ chối.”
Việc áp dụng khoản 3 Điều 117 BLTTDS trong thực tế cũng đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu và hướng dẫn thêm. Cụ thể, thời hạn 48 giờ cho Thẩm phán để quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể là quá dài trong nhiều trường hợp. Đặc biệt là khi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp như kê biên tài sản, cấm thay đổi hiện trạng tài sản hoặc phong toả tài khoản. Sự chậm trễ dù là trong một thời gian ngắn cũng đủ để bên bị yêu cầu có thể tẩu tán tài sản hoặc thay đổi tình trạng tài sản nhằm trốn tránh thi hành án. Điều 101 BLTTDS cũng không quy định rõ về trách nhiệm của người có thẩm quyền trong trường hợp này. Cần có hướng dẫn cụ thể cho Thẩm phán có thể quyết định ngay lập tức trong các trường hợp khẩn cấp.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 99 và khoản 3 Điều 117 BLTTDS hiện nay không quy định rõ liệu Toà án có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vào các ngày lễ hay ngày nghỉ hay không. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 120 BLTTDS quy định rằng nếu bên yêu cầu biện pháp khẩn cấp phải thực hiện biện pháp bảo đảm, thì “Khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá phải được gửi vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng nơi có trụ sở Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Nếu thực hiện vào ngày lễ hoặc ngày nghỉ, khoản tiền bảo đảm sẽ được giữ tại Toà án và chuyển vào ngân hàng ngay khi làm việc trở lại.”
Các quy định tại khoản 2 Điều 99, khoản 3 Điều 117 và khoản 2 Điều 120 BLTTDS có thể dẫn đến hai cách hiểu khác nhau. Cách hiểu thứ nhất cho rằng ngay cả trong trường hợp khẩn cấp, đương sự không thể yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu biện pháp phải thực hiện vào ngày lễ hoặc ngày nghỉ. Cách hiểu thứ hai lại cho rằng các biện pháp bảo đảm có thể thực hiện vào ngày lễ hoặc ngày nghỉ, do đó có thể suy luận rằng đương sự có thể yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay cả trong những ngày này. Hướng dẫn tại Mục 6 Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27-4-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án Nhân dân Tối cao cho phép tiếp nhận yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngoài giờ làm việc, kể cả trong ngày nghỉ.
Có thể nhận xét rằng các quy định về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã thể hiện một sự thay đổi đáng kể trong quan điểm xây dựng nền tố tụng dân chủ, nơi quyền lợi hợp pháp của công dân được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, có một câu hỏi cần làm rõ: trong trường hợp khẩn cấp, liệu đương sự có thể nộp đơn yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vào bất kỳ thời điểm nào trong ngày, kể cả sau 22 giờ đêm? Đơn yêu cầu có thể nộp cho Chánh án, Thẩm phán, hay thư ký Toà án và liệu có thể nộp tại nhà riêng của những người này? Để bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của đương sự, các cơ quan có thẩm quyền có thể hướng dẫn áp dụng các quy định của BLTTDS theo hướng cho phép yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp ngay cả ngoài giờ làm việc, kể cả trong ngày lễ và ngày nghỉ. Tuy nhiên, để thực hiện điều này, cần phải có cơ chế bảo đảm, chẳng hạn như việc có Thẩm phán trực ngoài giờ và trong các ngày nghỉ, lễ.
Nghiên cứu các hệ thống pháp luật tố tụng dân sự ở một số quốc gia cho thấy rằng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được áp dụng trước khi khởi kiện vụ án. Các nhà lý thuyết pháp lý từ hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa cho rằng cần trao cho Toà án thẩm quyền ban hành lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời một cách kịp thời và hiệu quả. Nguyên tắc này đã được thể hiện rõ trong các quy định pháp luật, cho phép áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời một cách độc lập, không phụ thuộc vào việc khởi kiện vụ án.
Hiện nay, biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của BLTTDS được áp dụng nhằm bảo đảm cho việc xét xử và thi hành án. Để đáp ứng nhu cầu thực tiễn, các nhà lập pháp có thể xem xét bổ sung quy định cho phép Thẩm phán quyết định ngay lập tức các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp khẩn cấp, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự trước khi có vụ kiện chính thức. Sau khi áp dụng biện pháp khẩn cấp, nếu vụ việc cần phải xét xử ngay, Thẩm phán có thể đưa vụ việc ra xét xử trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, việc xây dựng các quy định này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng.
2. Về việc nộp các khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá và các vấn đề thực tiễn phát sinh trong việc áp dụng các biện pháp này.
Để bảo vệ lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa việc lạm dụng quyền yêu cầu, các nhà lập pháp đã quy định trong BLTTDS rằng người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý, hoặc các giấy tờ có giá vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng. Theo khoản 1 Điều 120 BLTTDS, “Người yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Toà án ấn định, tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện.” Đây là một điểm tiến bộ của BLTTDS so với các quy định trước đây. Tuy nhiên, việc vận dụng quy định này trong thực tế còn gặp phải một số vấn đề cần được giải quyết.
Theo Điều luật này, mặc dù quy định rằng trong tình huống khẩn cấp cần phải bảo vệ bằng chứng và ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra, nếu người yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chưa thực hiện biện pháp bảo đảm, Toà án sẽ không ra quyết định. Cụ thể, theo mục 5.3 Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27-4-2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán chỉ có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi người yêu cầu đã thực hiện biện pháp bảo đảm. Tuy nhiên, việc yêu cầu thực hiện biện pháp bảo đảm này trong thực tế có thể không bảo vệ quyền lợi chính đáng của nguyên đơn, đặc biệt khi bị đơn có thể lợi dụng để tẩu tán tài sản, nhất là trong các trường hợp nguyên đơn là người nghèo, không có tiền, kim khí quý, đá quý hay giấy tờ có giá để gửi vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng.
Trong quá trình xây dựng quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm, đã có ý kiến cho rằng cần phải xem xét kỹ vấn đề này để tránh hạn chế quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của những người nghèo khi khởi kiện. Các cơ quan chức năng cần nhanh chóng nghiên cứu và hướng dẫn cụ thể để đảm bảo rằng các quy định này khi áp dụng sẽ bảo vệ công bằng và quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự.
3. Về giá trị của các khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá mà người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp.
Theo khoản 1 Điều 120 BLTTDS, người yêu cầu Toà án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời như kê biên, cấm chuyển dịch, cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp, phong tỏa tài khoản hay tài sản của người có nghĩa vụ, phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý, hoặc giấy tờ có giá do Toà án ấn định, tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện, nhằm bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng biện pháp và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu. Câu hỏi đặt ra là, khoản tiền, kim khí quý, đá quý hay giấy tờ có giá này cần hiểu như thế nào?
Theo logic trong khoản 1 Điều 120, 'nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện' phải được hiểu là nghĩa vụ tài sản của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Nếu hiểu như vậy, liệu khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá mà nguyên đơn phải nộp khi yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có phải tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp phải thực hiện? Điều này có thể tạo ra khó khăn cho nguyên đơn, đặc biệt khi yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Chẳng hạn, nếu nguyên đơn yêu cầu phong tỏa tài sản trị giá 500 triệu, nguyên đơn sẽ phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá tương đương 500 triệu vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng. Điều này có thể gây khó khăn cho những người nghèo, như đã phân tích.
Theo Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27-4-2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, 'Nghĩa vụ tài sản' được hiểu là nghĩa vụ bồi thường thiệt hại có thể xảy ra cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT) hoặc cho bên thứ ba nếu việc yêu cầu áp dụng BPKCTT là không chính xác. Mặt khác, Nghị quyết này cũng xác định rằng 'Người có nghĩa vụ phải thực hiện' là người yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng. Nếu người yêu cầu là người đại diện theo ủy quyền của đương sự, thì đương sự sẽ là người có nghĩa vụ thực hiện. Giải thích này phù hợp với bản chất của biện pháp bảo đảm trong pháp luật tố tụng dân sự ở nhiều quốc gia và thực tiễn áp dụng. Tuy nhiên, theo logic ngôn ngữ, giải thích này dường như không hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Điều 120 BLTTDS.
Chúng tôi cho rằng việc yêu cầu người yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thực hiện biện pháp bảo đảm là để bảo vệ quyền lợi của người bị áp dụng biện pháp và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu. Trong trường hợp nguyên đơn yêu cầu các biện pháp khẩn cấp tạm thời như kê biên, cấm chuyển dịch, phong tỏa tài khoản của bị đơn nhưng yêu cầu không chính xác, thì thiệt hại phát sinh không thể so sánh với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện. Ví dụ, nếu nguyên đơn yêu cầu phong tỏa tài khoản bị đơn trong vụ kiện đòi nợ mà yêu cầu không chính xác, thiệt hại sẽ chỉ do tài sản không thể tham gia lưu thông. Còn trong trường hợp kê biên hoặc cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp, thiệt hại có thể là việc tài sản không thể lưu thông hoặc không thể sử dụng, dẫn đến thiệt hại về trượt giá hoặc không khai thác được công dụng của tài sản.
Chúng tôi cho rằng việc Toà án ấn định một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá tương ứng (không phải tương đương hoặc ngang bằng) với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện là hợp lý. Khoản tiền này sẽ được gửi vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng. Các quy định về tạm thi hành từ Điều 514 đến Điều 526 BLTTDS Pháp năm 1807, đặc biệt Điều 517, cũng chỉ yêu cầu bảo lãnh hoặc tài sản đảm bảo đủ để hoàn trả hoặc bồi thường thiệt hại, chứ không yêu cầu tài sản bảo đảm phải có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản.
Theo chúng tôi, các hướng dẫn tại Mục 8 Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27-4-2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã giúp khắc phục khó khăn trong việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 120 BLTTDS. Tuy nhiên, chúng tôi đề xuất sửa đổi quy định này như sau: 'Người yêu cầu Toà án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10 và 11 Điều 102 của Bộ luật này phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Toà án ấn định, tương ứng với thiệt hại có thể xảy ra từ việc yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng, để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng biện pháp hoặc người thứ ba và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu từ người có quyền yêu cầu.'
Trên đây là một số ý kiến rút ra từ việc nghiên cứu các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong BLTTDS và những vấn đề gặp phải trong thực tiễn áp dụng. Chúng tôi mong rằng các cơ quan chức năng sẽ tham khảo và hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan.
Chú thích:
(1), (2) Tham khảo Trần Anh Tuấn – Chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật Tố tụng Dân sự Việt Nam, Tạp chí Luật học – Đại học Luật Hà Nội, số 4/2004, trang 89.
(3) Tham khảo Jean Vincent và Serge Guinchard, Procédure civile, Nhà xuất bản DALLOZ, 2001, trang 612, 622.
(4) Tham khảo Luật sư Lê Kim Quế – Một số vấn đề cần nghiên cứu thêm về Dự thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tạp chí TAND số tháng 4/2004 (số 7), trang 24.
(5) Tham khảo Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2005, trang 187.
nguồn: Tạp chí Dân Chủ và Pháp Luật, số 12(165) năm 2005 - THS. Trần Anh Tuấn – Khoa Pháp luật Dân sự – Đại học Luật Hà Nội