1. Trích dẫn Án lệ số 03/2016/AL
Án lệ này đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA cùng ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
1.1 Nguồn gốc án lệ
Quyết định giám đốc thẩm số 208/2013/DS-GĐT ngày 03-5-2013 của Toà Dân sự Tòa án nhân dân tối cao liên quan đến vụ án ly hôn tại Hà Nội giữa nguyên đơn là chị Đỗ Thị Hồng và bị đơn anh Phạm Gia Nam. Các bên có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan gồm ông Phạm Gia Phác, bà Phùng Thị Tài, anh Phạm Gia Ơn, chị Phạm Thị Lữ, anh Bùi Văn Đáp và chị Đỗ Thị Ngọc Hà.
1.2 Tóm tắt nội dung của án lệ
Trong trường hợp cha mẹ đã tặng cho vợ chồng con cái một mảnh đất và vợ chồng con cái đã xây dựng nhà kiên cố trên đó làm nơi cư trú, khi thực hiện việc xây dựng, cha mẹ cùng các thành viên khác trong gia đình không phản đối gì. Vợ chồng con cái đã sử dụng đất và nhà một cách liên tục, công khai, ổn định và đã hoàn thành thủ tục kê khai đất, nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, vợ chồng con cái được coi là đã được tặng quyền sử dụng đất.
1.3 Các quy định pháp luật liên quan đến án lệ
- Điều 14 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.
- Điều 242 của Bộ luật Dân sự năm 1995.
- Khoản 2 Điều 176 của Bộ luật Dân sự năm 1995.
1.4 Tóm tắt nội dung án lệ
Theo xác minh từ Ủy ban nhân dân xã Vân Tảo, vào năm 2001, xã đã tổ chức cho các hộ dân trong xã đăng ký kê khai để xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc kê khai được thực hiện tại trụ sở thôn xóm (BL 103). Mọi hộ dân trong xã đều được thông báo về chủ trương này. Ông Phác, mặc dù là chủ đất, nhưng không tham gia kê khai. Anh Nam, người đang cư trú trên đất, đã thực hiện việc kê khai và làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Vào ngày 21-12-2001, anh Nam nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U060645, đứng tên hộ ông Phạm Gia Nam. Vợ chồng anh Nam đã xây dựng nhà 2 tầng kiên cố vào năm 2002 và vào năm 2005, họ tiếp tục xây thêm tum tầng 3. Ông Phác và các thành viên khác trong gia đình anh Nam đều biết về việc xây dựng, nhưng không có ý kiến gì. Từ khi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp (2001) cho đến khi vụ ly hôn giữa anh Nam và chị Hồng xảy ra (2009), gia đình ông Phác không có khiếu nại gì về việc cấp đất và xây dựng nhà. Điều này chứng tỏ ý chí của gia đình ông Phác trong việc tặng cho anh Nam và chị Hồng diện tích đất. Vì vậy, lời khai của ông Phác và anh Nam cho rằng anh Nam tự ý kê khai và ông Phác không biết là không có cơ sở. Như vậy, có căn cứ xác định lời khai của chị Hồng về việc gia đình ông Phác đã tặng cho vợ chồng chị diện tích đất là có cơ sở.
Do đó, việc các Tòa án các cấp cho rằng anh Nam tự làm giấy tờ đất mà ông Phác không biết, và việc chị Hồng khai gia đình chồng đã tặng đất mà không có chứng cứ chứng minh, để xác định diện tích đất 80m2 tại thôn Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, Hà Nội là tài sản của hộ gia đình ông Phác, đồng thời yêu cầu anh Nam, chị Hồng phải trả lại đất cho gia đình ông Phác là không đúng. Cần phải xác định diện tích đất tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng anh Nam và chị Hồng. Khi chia, cần căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên và nhu cầu về chỗ ở để phân chia tài sản, bảo đảm quyền lợi cho các đương sự.
2. Nhận xét về án lệ
2.1 Các quy định pháp lý liên quan đến án lệ
Bộ luật Dân sự năm 1995
Điều 176. Căn cứ xác lập quyền sở hữu
Quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản trong những trường hợp sau đây:
…
2- Quyền sở hữu có thể được chuyển nhượng theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; …
Điều 242. Xác lập quyền sở hữu thông qua thỏa thuận
Người nhận tài sản qua các hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay sẽ có quyền sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986
Điều 144.
Tài sản chung của vợ chồng bao gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập từ nghề nghiệp và các khoản thu nhập hợp pháp khác trong thời gian hôn nhân, cũng như tài sản mà vợ chồng nhận được qua thừa kế chung hoặc tặng cho chung.
2.2 Sự cần thiết phải công khai án lệ
Trong các tranh chấp liên quan đến việc tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là một trong những chứng cứ quan trọng để xác định việc tặng cho. Tuy nhiên, nếu các bên tranh chấp không ký kết hợp đồng tặng cho, Tòa án phải dựa vào những chứng cứ và sự kiện pháp lý khác để xác định có hay không có việc tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
Vụ án tạo ra Án lệ số 03/2016/AL là một ví dụ điển hình của trường hợp trên: Chị Đỗ Thị Hồng và anh Phạm Gia Nam kết hôn vào năm 1992. Vào ngày 18-4-2009, chị Hồng đã nộp đơn xin ly hôn anh Nam, và anh Nam đồng ý. Trong thời gian chung sống, vợ chồng anh Nam và chị Hồng đã xây dựng một ngôi nhà hai tầng vào năm 2002 (năm 2005 xây thêm một tum để giảm nhiệt) trên thửa đất 80m2 tại xóm Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín. Diện tích đất này thuộc quyền sở hữu của ông Phạm Gia Phác, được Ủy ban nhân dân xã Vân Tảo cấp giãn dân vào năm 1992. Vợ chồng anh Nam và chị Hồng đã thống nhất rằng căn nhà trên đất là tài sản chung của họ, nhưng đối với đất đai, các bên không đạt được sự thống nhất. Chị Hồng cho rằng gia đình ông Phác đã tuyên bố tặng cho vợ chồng chị diện tích đất trên, trong khi ông Phác và anh Nam khẳng định gia đình họ chưa tặng cho vợ chồng anh Nam và chị Hồng.
Trong tình huống này, một số quan điểm cho rằng ngôi nhà là tài sản chung của vợ chồng anh Nam và chị Hồng, trong khi quyền sử dụng đất thuộc về ông Phác. Lý do là vì không có hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Phác và vợ chồng anh Nam, chị Hồng, do đó không thể coi ông Phác đã tặng cho vợ chồng anh Nam, chị Hồng quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, một quan điểm khác lại cho rằng, từ các tình tiết được làm rõ trong quá trình giải quyết vụ án, như sau: Tất cả các hộ dân trong xã đều biết về chủ trương kê khai đất, nhưng ông Phác không thực hiện kê khai; anh Nam đã sinh sống trên thửa đất và đã thực hiện kê khai, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; vợ chồng anh Nam, chị Hồng đã xây dựng một ngôi nhà hai tầng vững chãi trên đất; ông Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đều biết về việc xây dựng này mà không có bất kỳ ý kiến phản đối nào. Do đó, có cơ sở để khẳng định rằng gia đình ông Phác đã tặng cho vợ chồng anh Nam và chị Hồng quyền sử dụng đất này.
Nhằm đảm bảo việc áp dụng pháp luật một cách thống nhất và giải quyết các vụ việc có tình huống pháp lý tương tự một cách đồng nhất, Tòa án nhân dân tối cao đã chọn Quyết định giám đốc thẩm số 208/2013/DS-GĐT ngày 03-5-2013 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao để phát triển thành Án lệ số 03/2016/AL, liên quan đến trường hợp cha mẹ tặng cho vợ chồng con cái quyền sử dụng đất thực tế.
3. Nội dung án lệ
Vị trí nội dung án lệ trong Quyết định giám đốc thẩm số 208/2013/DS-GĐT nằm ở đoạn 5 và 6 phần Nhận định của Tòa án, cụ thể như sau:
Theo kết quả xác minh từ Ủy ban nhân dân xã Vân Tảo, vào năm 2001, xã đã tổ chức cho các hộ dân trong xã đăng ký kê khai để xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại trụ sở thôn (BL 103). Tất cả các hộ dân đều biết về chủ trương này, tuy nhiên ông Phác, mặc dù là chủ đất, lại không thực hiện kê khai. Anh Nam, người đang sinh sống trên đất, đã thực hiện thủ tục kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 21-12-2001, với số giấy chứng nhận U060645, đứng tên hộ ông Phạm Gia Nam. Vợ chồng anh Nam, chị Hồng đã xây dựng một ngôi nhà hai tầng kiên cố vào năm 2002, và năm 2005 tiếp tục xây thêm tum tầng 3. Mọi thành viên trong gia đình ông Phác đều biết về việc xây dựng này nhưng không phản đối. Từ khi cấp giấy chứng nhận (2001) cho đến khi vợ chồng anh Nam, chị Hồng ly hôn vào năm 2009, gia đình ông Phác không có khiếu nại gì về việc cấp đất hay xây dựng. Điều này cho thấy ý chí của gia đình ông Phác đã cho vợ chồng anh Nam, chị Hồng quyền sử dụng đất. Do đó, việc ông Phác và anh Nam khai rằng anh Nam tự ý kê khai mà không có sự đồng ý của ông Phác là không có cơ sở. Lời khai của chị Hồng về việc gia đình ông Phác đã tặng cho vợ chồng chị diện tích đất trên là có cơ sở.
Vì vậy, khi Tòa án các cấp nhận định rằng anh Nam đã tự làm giấy tờ đất mà ông Phác không biết và cho rằng lời khai của chị Hồng về việc gia đình chồng đã cho vợ chồng anh chị mà không có chứng cứ chứng minh, từ đó xác định diện tích đất 80m2 tại thôn Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội là tài sản của gia đình ông Phác và buộc vợ chồng anh Nam, chị Hồng trả lại đất cho gia đình ông Phác, thì nhận định này là không chính xác. Thay vào đó, diện tích đất này cần được xác định là tài sản chung của vợ chồng anh Nam, chị Hồng và khi chia tài sản cần phải xem xét công sức đóng góp của mỗi bên, đồng thời căn cứ vào nhu cầu về chỗ ở để phân chia tài sản nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các đương sự.
Án lệ nêu trên đề cập đến trường hợp tặng cho quyền sử dụng đất thực tế, trong đó cha mẹ đã tặng cho vợ chồng con cái một diện tích đất mà không có chứng cứ pháp lý rõ ràng. Tòa án cần xác định việc có hay không việc tặng cho quyền sử dụng đất trong trường hợp này dựa trên các tình tiết sau:
Thứ nhất, vợ chồng con cái đã xây dựng một ngôi nhà kiên cố trên diện tích đất đó làm nơi ở. Trong vụ án này, vợ chồng anh Nam, chị Hồng đã xây dựng ngôi nhà hai tầng vào năm 2002 và tiếp tục xây thêm một tum vào năm 2005 để chống nóng. Việc xây dựng này thể hiện nguyện vọng sinh sống lâu dài của vợ chồng anh Nam, chị Hồng trên mảnh đất đó. Nếu không được cha mẹ tặng cho quyền sử dụng đất, thì việc vợ chồng anh Nam, chị Hồng đầu tư công sức và tiền bạc vào việc xây dựng nhà kiên cố trên đất là không thể xảy ra.
Thứ hai, khi vợ chồng con cái xây dựng nhà, cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình đều biết nhưng không phản đối hay có ý kiến gì. Trong vụ án này, ông Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đều biết về việc xây dựng nhà của vợ chồng anh Nam, chị Hồng nhưng không ai có ý kiến phản đối. Việc không có phản đối này là bằng chứng thể hiện ý chí của cha mẹ là đã tặng cho con quyền sử dụng đất. Nếu không có việc tặng cho, khi vợ chồng anh Nam, chị Hồng xây dựng nhà kiên cố trên đất, ông Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đã phải có hành động phản đối hoặc ngừng việc sử dụng đất. Vì vậy, tình tiết này là điều kiện quan trọng để xác nhận việc tặng cho quyền sử dụng đất thực tế.
Thứ ba, vợ chồng người con đã liên tục và công khai sử dụng đất và nhà một cách ổn định. Cụ thể, trong vụ việc này, từ năm 2002 đến năm 2009, vợ chồng anh Nam, chị Hồng đã sử dụng tài sản này mà không gặp bất kỳ sự cản trở nào. Việc sử dụng nhà, đất liên tục và công khai trong thời gian dài là biểu hiện rõ ràng của việc thực thi quyền sở hữu đối với quyền sử dụng đất và nhà ở gắn liền với đất.
Thứ tư, vợ chồng người con đã thực hiện thủ tục kê khai đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp. Qua quá trình giải quyết vụ án, xác minh cho thấy rằng tất cả các hộ dân trong xã đều được biết về chủ trương kê khai đất này. Tuy nhiên, gia đình ông Phác không thực hiện kê khai quyền sử dụng đất, trong khi anh Nam đã thực hiện thủ tục này mà không gặp phản đối từ ai. Tình tiết này củng cố chứng cứ cho thấy gia đình ông Phác đã tặng cho vợ chồng anh Nam, chị Hồng quyền sử dụng đất đó. Việc vợ chồng anh Nam, chị Hồng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là sự công nhận quyền sở hữu hợp pháp của họ đối với tài sản này.
Các tình huống tương tự có thể tham khảo và áp dụng án lệ số 03/2016/AL.
Án lệ số 03/2016/AL đã được xây dựng nhằm hướng dẫn các Tòa án khi giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc tặng cho quyền sử dụng đất trong thực tế. Nội dung án lệ như sau: Khi cha mẹ tặng cho vợ chồng con cái một diện tích đất, và vợ chồng con cái đã xây dựng nhà kiên cố trên đất đó để sinh sống, đồng thời không có sự phản đối từ cha mẹ và các thành viên trong gia đình, cũng như khi vợ chồng con cái đã sử dụng đất liên tục, công khai và ổn định và thực hiện thủ tục kê khai để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì cần xác định quyền sử dụng đất đã được tặng cho vợ chồng con cái.
Trong án lệ này, chủ thể tặng cho quyền sử dụng đất là cha mẹ, và chủ thể nhận tặng cho là vợ chồng con cái, tất cả đều là thành viên trong cùng gia đình. Do đó, trong trường hợp chủ thể tặng cho là ông bà và chủ thể nhận tặng cho là vợ chồng cháu, các cháu hoặc con cái, khi giải quyết các vụ việc có tình huống tương tự như án lệ số 03/2016/AL, Tòa án có thể áp dụng các giải pháp pháp lý đã nêu trong án lệ này để giải quyết.
(Thu thập)