Chủ thể tham gia hợp đồng nhượng quyền thương mại bao gồm các thương nhân có quyền kinh doanh độc lập, tổ chức hoạt động kinh doanh theo một mô hình mạng lưới với sự phối hợp giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền, nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan. Các bên nhận quyền phải tuân thủ chặt chẽ mô hình nhượng quyền, áp dụng đồng nhất các bí quyết trong hệ thống và thanh toán các khoản phí liên quan đến việc sử dụng thương hiệu và khai thác lợi ích trong suốt thời gian hợp đồng có hiệu lực (khác với hợp đồng đại lý, bên nhận đại lý không chịu trách nhiệm này). Bên nhượng quyền có quyền giám sát việc thực hiện các nghĩa vụ này của bên nhận quyền, điều mà bên đại lý không có quyền thực hiện đối với bên nhận đại lý. Hệ thống nhượng quyền thương mại có thể dẫn đến việc phân chia thị trường, gây ra những hạn chế cạnh tranh, đặc biệt qua các điều khoản như phân vùng địa lý, cấm quảng cáo ngoài phạm vi, bán độc quyền liên quan đến nhãn hiệu hoặc sản phẩm, và quy định về bán kèm. Thêm vào đó, trong nhiều hợp đồng nhượng quyền, còn có các quy định về việc ấn định giá bán cho các thành viên trong mạng lưới và các điều kiện ràng buộc khác. Dựa vào đặc thù của đối tượng điều chỉnh, hợp đồng nhượng quyền có thể phân thành các loại sau: (i) Nhượng quyền dịch vụ, nơi bên nhận quyền cung cấp dịch vụ dưới tên thương mại hoặc nhãn hiệu của bên nhượng quyền; (ii) Nhượng quyền sản xuất, quy định bên nhận quyền sản xuất sản phẩm theo chỉ dẫn của bên nhượng quyền và bán chúng dưới nhãn hiệu của bên nhượng quyền; (iii) Nhượng quyền phân phối, trong đó bên nhận quyền chỉ thực hiện việc bán sản phẩm dưới tên thương mại hoặc biểu tượng của bên nhượng quyền. Mỗi loại hợp đồng nhượng quyền sẽ có khả năng dẫn đến những hạn chế cạnh tranh khác nhau, tùy vào hoàn cảnh kinh tế và nội dung cụ thể của hợp đồng.
Luật sư tư vấn Luật sở hữu trí tuệ qua điện thoại (24/7), gọi số: 0986.386.648
Thỏa thuận quy định phân chia khu vực kinh doanh
Để đảm bảo lợi ích của bên nhận quyền và tránh cạnh tranh không công bằng giữa các bên nhận quyền trong cùng một khu vực địa lý, đồng thời duy trì hiệu quả kinh doanh toàn hệ thống, bên nhượng quyền thường quyết định số lượng cửa hàng nhượng quyền trong một khu vực nhất định bằng cách phân chia khu vực kinh doanh cụ thể cho từng bên nhận quyền. Điều này cũng cấm các bên nhận quyền mở rộng hoạt động kinh doanh ngoài phạm vi đã được bên nhượng quyền phê duyệt, đồng thời yêu cầu mỗi bên chỉ được điều hành một cơ sở duy nhất được cấp phép bởi bên nhượng quyền. Ví dụ, trong hợp đồng nhượng quyền của hệ thống nhà hàng Burger King tại Hoa Kỳ, có quy định: “Hợp đồng nhượng quyền này áp dụng cho địa điểm đã được xác định cụ thể và không có quyền độc quyền cho bất kỳ khu vực, thị trường hoặc lãnh thổ nào đối với bên nhận quyền”2. Tương tự, hệ thống KFC quy định quyền bán độc quyền trong bán kính 1,5 dặm cho một khu vực có khoảng 30.000 dân3. Quy định phân chia khu vực và hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong hợp đồng nhượng quyền là một đặc điểm quan trọng của hoạt động nhượng quyền thương mại, giúp bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Nhờ sự phân chia này, mỗi bên nhận quyền chỉ được phép kinh doanh trong một khu vực nhất định, từ đó tạo ra quyền độc quyền cho bên nhận quyền trong khu vực đó. Tuy nhiên, thỏa thuận kiểu này có thể hạn chế quyền tự do kinh doanh và khả năng phát triển của bên nhận quyền, đồng thời tạo ra sự hạn chế cạnh tranh (theo chiều ngang) đối với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành nghề muốn gia nhập thị trường ở các khu vực đã được phân chia. Điều này cũng có thể làm giảm sự lựa chọn của người tiêu dùng đối với các nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ trong khu vực đó. Tuy nhiên, không phải tất cả các thỏa thuận phân chia khu vực kinh doanh đều vi phạm quy định về cạnh tranh; việc đánh giá có vi phạm hay không cần xem xét từng trường hợp cụ thể.
Tòa án Tư pháp châu Âu (ECJ)4 trong vụ án 161/84 án lệ Pronuptia5 đã đưa ra hướng dẫn cho Tòa án tối cao Liên bang Đức trong việc giải quyết vụ tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhượng quyền thương mại giữa Pronuptia de Paris Gmbh, Frankfurt am Main và Pronuptia de Paris Irmgard Schillgalis, Hamburg, dựa trên luật cạnh tranh của Liên minh châu Âu. Bên nhượng quyền (Pronuptia de Paris Gmbh)6 kiện bên nhận quyền (bà Schillgalis) về việc không thanh toán phí sử dụng nhãn hiệu, tính trên 10% doanh thu của các năm 1978 đến 1980. Các hợp đồng quy định rằng, bên nhận quyền có quyền nhượng quyền thương mại tại ba khu vực Hamburg, Oldenburg và Hanover, để bán các sản phẩm áo cưới, dạ hội, dự tiệc và phụ kiện. Các thỏa thuận trong hợp đồng bao gồm quyền độc quyền sử dụng nhãn hiệu thương mại 'Pronuptia de Paris' trong phạm vi lãnh thổ được xác định, đồng thời bên nhận quyền không được mở cửa hàng thứ hai hoặc cung cấp hàng hóa/dịch vụ cho bên thứ ba trong phạm vi lãnh thổ này. Tại Tòa án phúc thẩm Frankfurt am Main (Oberlandesgericht Frankfurt am Main)7, bên nhận quyền lập luận rằng hợp đồng vi phạm luật cạnh tranh, trái với Điều 81(1) của Hiệp ước EC và không thuộc các loại hợp đồng được miễn trừ theo Quy định số 67/67 của Ủy ban châu Âu. Bên nhượng quyền đã áp đặt các điều kiện hạn chế cạnh tranh (HCCT), cụ thể là việc quy định ba cửa hàng tại các khu vực đã xác định, dẫn đến việc hạn chế quyền mở cửa hàng thứ hai trong cùng khu vực địa lý. Do đó, thỏa thuận này đã gây ra sự phân chia thị trường và ảnh hưởng đến cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền. Điều này có thể tác động đến giao dịch giữa các quốc gia thành viên, ngay cả khi các doanh nghiệp có trụ sở tại cùng một quốc gia. Tòa án đồng ý với lập luận của bên nhận quyền và cho rằng các điều khoản hạn chế này vượt quá mức cần thiết để bảo vệ bí quyết hoặc danh tiếng của mạng lưới. Vì vậy, các điều khoản chia sẻ thị trường trong hợp đồng Pronuptia đã vi phạm Điều 81(1). Tuy nhiên, Tòa án cũng lưu ý rằng không phải tất cả các hạn chế về địa lý trong thỏa thuận nhượng quyền đều vi phạm Điều 81(1), mà điều này còn phụ thuộc vào nội dung cụ thể và bối cảnh kinh tế của thỏa thuận.
Các thỏa thuận phân phối và cung ứng độc quyền
Trong các thỏa thuận nhượng quyền thương mại, đặc biệt là đối với hình thức nhượng quyền phân phối, bên nhận quyền chỉ được phép bán các sản phẩm có nhãn hiệu của bên nhượng quyền tại các cửa hàng mang tên thương mại hoặc biểu tượng của bên nhượng quyền. Điều này yêu cầu bên nhận quyền phải tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ lợi ích của bên nhượng quyền. Bên nhận quyền không được thực hiện hành vi nào có thể mang lại lợi ích cho bên thứ ba hoặc đối thủ cạnh tranh của mình. Đồng thời, bên nhận quyền có nghĩa vụ: chỉ được bán các sản phẩm do bên nhượng quyền cung cấp hoặc do bên nhượng quyền chỉ định; hạn chế việc kinh doanh các loại hàng hóa đã được chỉ định, trừ khi chúng được cung cấp bởi bên nhượng quyền hoặc bên nhượng quyền cho phép; cấm bán các sản phẩm không mang nhãn hiệu của bên nhượng quyền9. Trong hợp đồng NQTM của Burger King (BKC), các món ăn trong thực đơn được chọn lọc bởi BKC để đảm bảo sự thành công trên thị trường và sự chuẩn hóa trong hệ thống nhà hàng BKC. Các món ăn này sẽ được phục vụ nếu có mặt trong Sách hướng dẫn và được phê duyệt bằng văn bản bởi BKC. Bên nhận quyền chỉ được phép bán lẻ các món đã được phê duyệt trong nhà hàng nhượng quyền và không được phép bán lại hay phân phối ra ngoài. Để duy trì sự độc quyền trong việc cung cấp sản phẩm, bên nhượng quyền yêu cầu bên nhận quyền phải mua nguyên liệu, thực phẩm, bao bì từ bên nhượng quyền10. Những thỏa thuận này giúp bảo vệ chất lượng và sự nhận diện của mạng lưới nhượng quyền. Trong trường hợp của Pronuptia de Paris Gmbh, bên nhận quyền phải mua 80% sản phẩm từ bên nhượng quyền, trong khi phần còn lại có thể mua từ các nhà cung cấp được phê duyệt. Tòa án đã nhận định rằng, trong trường hợp này, các điều khoản không tạo thành hạn chế cạnh tranh theo Điều 81(1). Tuy nhiên, các thỏa thuận này thường xuyên gây ảnh hưởng đến cạnh tranh giữa các nhãn hàng, vì chúng hạn chế quyền bán hàng trong khu vực địa lý nhất định.
Các thỏa thuận mua bán cả gói
Không phải tất cả các thỏa thuận bán kèm đều vi phạm pháp luật cạnh tranh. Ví dụ, trong vụ án Kentucky Fried Chicken v Diversified Packing16, các bên thỏa thuận rằng bên nhận quyền phải mua thiết bị và nguyên liệu từ bên nhượng quyền hoặc từ nhà cung cấp khác mà bên nhượng quyền đồng ý, với điều kiện các sản phẩm này đảm bảo chất lượng. Tòa án phúc thẩm liên bang Mỹ đã kết luận rằng thỏa thuận này không vi phạm pháp luật cạnh tranh. Vì vậy, một thỏa thuận bán kèm có ràng buộc sẽ chỉ được coi là vi phạm pháp luật cạnh tranh nếu nó có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động thương mại trên thị trường sản phẩm bán kèm, đặc biệt là khi người bán có sức mạnh thị trường lớn trên thị trường chính.
Thỏa thuận giá bán lại
Việc thỏa thuận về giá bán hàng hóa và dịch vụ có thể bao gồm quy định mức giá trần, mức giá sàn hoặc mức giá đề nghị không ràng buộc, hoặc bất kỳ mức giá nào mà bên nhượng quyền quảng cáo. Bên nhận quyền có trách nhiệm không bán hàng hóa dưới mức giá sàn đã thỏa thuận, cũng như không vượt quá mức giá trần đã đề ra, hoặc chỉ được phép bán theo mức giá đã xác định17. Trong hợp đồng của Pronuptia de Paris GmbH, giá bán lẻ do bên nhượng quyền đề nghị không ảnh hưởng đến quyền tự định giá của bên nhận quyền18, tuy nhiên, do các chi phí đầu vào cao và các điều kiện ràng buộc khác, bên nhận quyền khó có thể áp dụng giá thấp hơn giá đề xuất của bên nhượng quyền. Trong nhiều hợp đồng, bên nhượng quyền chỉ đưa ra mức giá khuyến nghị, không bắt buộc nhưng thực tế, bên nhận quyền khó có thể điều chỉnh giá ngoài phạm vi này. Ví dụ, với các hệ thống NQTM như Highland Coffee, KFC tại Việt Nam, giá bán tại các cửa hàng trong cùng một hệ thống không có sự chênh lệch lớn, điều này có thể được coi là các thỏa thuận ngầm về giá. Trước đây, hệ thống phở 24 tại Việt Nam cũng công khai mức giá đồng nhất cho tất cả các cửa hàng của mình, và mặc dù hiện nay không công khai, nhưng các cửa hàng vẫn bán theo giá gần như giống nhau.
Vì vậy, các thỏa thuận về việc duy trì giá bán lại có thể gây ra những hậu quả không tốt cho cạnh tranh. Nếu việc duy trì mức giá trần có thể mang lại lợi ích cho người tiêu dùng và thường được miễn trừ trong luật cạnh tranh ở một số quốc gia, nhưng trên thực tế, thỏa thuận này có thể khiến các doanh nghiệp nhỏ không có lợi thế kinh tế bị loại khỏi thị trường, vì họ sẽ phải bán với mức giá cao hơn để tránh thua lỗ. Đối với hệ thống NQTM, việc duy trì giá bán lại ở mức tối đa sẽ dẫn đến việc tạo ra mức giá đồng nhất trên thị trường, từ đó loại bỏ sự cạnh tranh về giá. Ngược lại, việc duy trì giá bán tối thiểu sẽ làm hạn chế sự cạnh tranh giữa các bên nhận quyền, hạn chế khả năng sáng tạo và linh hoạt trong hoạt động kinh doanh của họ, cũng như tăng nguy cơ thông đồng về giá.
Kiểm soát số lượng đầu vào, đầu ra của sản phẩm
Trong hình thức NQTM sản xuất, bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền sản xuất và bán các sản phẩm mang nhãn hiệu của mình, theo sự chỉ đạo của bên nhượng quyền. Trong trường hợp này, bên nhận quyền, đặc biệt là các doanh nghiệp trong ngành sản xuất đầu ra, không được phép giao dịch với các đối thủ cạnh tranh trong ngành sản xuất đầu vào, ví dụ như ngành sản xuất thuốc, nước giải khát, v.v. Để tối đa hóa lợi nhuận và thực hiện chiến lược kinh doanh, bên nhượng quyền có thể đưa ra các điều khoản trong hợp đồng nhằm kiểm soát và hạn chế số lượng hàng hóa phân phối, với mục đích tạo ra sự khan hiếm giả và điều chỉnh giá để thao túng thị trường.
Không chỉ có những thỏa thuận có thể dẫn đến HCCT như đã phân tích, mà còn có những thỏa thuận khác trong hợp đồng NQTM nhằm đảm bảo sự chuẩn mực và đồng bộ của hệ thống nhượng quyền, cũng như bảo vệ lợi ích của bên nhượng quyền. Ví dụ, các hợp đồng này có thể bao gồm các điều khoản như đảm bảo quảng cáo độc quyền cho bên nhượng quyền, hoặc cấm bên nhận quyền cạnh tranh với các bên nhượng quyền khác trong cùng hệ thống19. Mặc dù bên nhận quyền có thể đề xuất cải tiến về sản phẩm, thiết bị, đồng phục, cơ sở vật chất, hình thức, dịch vụ hoặc quảng cáo, các đề xuất này có thể được chấp nhận hoặc không bởi bên nhượng quyền. Bên nhận quyền phải chấp nhận rằng mọi đề xuất được đưa ra theo hợp đồng sẽ thuộc quyền sở hữu độc quyền của bên nhượng quyền, và bên nhượng quyền không có nghĩa vụ phải sử dụng những đề xuất đó hay phải đền bù cho bên nhận quyền. Bên nhận quyền không được phép sử dụng các đề xuất này trong hoạt động kinh doanh của mình mà không có sự đồng ý trước bằng văn bản của bên nhượng quyền20. Do đó, cần phải làm rõ hơn các thỏa thuận có thể dẫn đến HCCT để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên trong hợp đồng NQTM cũng như lợi ích công cộng.
Chú thích:
(1) ECJ, Case 161/84, Pronuptia de Paris GmbH v Pronuptia de Paris Irmgard Schillgallis, 28/1/1986,[1986]ECR 353. đoạn 33.
(2) www.burgerkingfranchiser.com
(3) www.yumfranchises.com
(4) Treaty establishing a European Economic Community (EEC) (1957), Article 177.
(5) ECJ, Case 161/84, Pronuptia de Paris GmbH v Pronuptia de Paris Irmgard Schillgallis, 28/1/1986,[1986]ECR 353
(6) Pronuptia de Paris GmbH, located in Frankfurt am Main, Federal Republic of Germany, is a subsidiary of Pronuptia de Paris, a company headquartered in France. It holds the authority to sign franchise agreements under the parent company's trademark, 'Pronuptia de Paris'.
(7) Due to the franchisee's failure to pay the trademark usage fees, the franchisor filed a lawsuit against the franchisee. The first-instance court ruled that the franchisee owed an amount of 158,502 for unpaid trademark usage fees based on the franchisee's sales figures from 1978 to 1980. The franchisee appealed the decision to the appellate court.
(8) ECJ, Case 161/84, Pronuptia de Paris GmbH v Pronuptia de Paris Irmgard Schillgallis, 28/1/1986,[1986]ECR 353, paragraphs 23; 24; 26
(9) Hằng Nga, Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại, Nxb Tổng hợp TP.HCM, 2009, p. 57.
(10) www.burgerkingfranchiser.com
(11) Luật Cạnh tranh của Canada.
(12) www.burgerkingfranchiser.com
(13) Eastman Kodak v Image Technical Services, 504 U.S. 451, 461-462 (1992); Northern Pacific Railway Company v US, 356 U.S. 1, 5-6 (1958); Forter Enterprises, Inc v. US Steel Corp., 394 U.S. 495, 503 (1969).
(14) Siegel v Chicken Delight, Inc., 448 F.2d 43 (9th Cir. 1971), cert. denied 405 U.S. 955 (1972).
(15) Standard Oil Co. v. United States, 337 U.S. 293, 305-306, 69 S.Ct. 1051, 93 L.Ed. 1371 (1949)
(16) Kentuckey Fried Chicken v Diversified Packing, 549 F.2d 368, 375-378 (5th Cir. 1977).
(17) Tham khảo Nguyễn Thị Thanh Huyền, Luận văn thạc sỹ luật học “Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh Việt Nam và Liên minh châu Âu”, trường Đại học Luật TP. HCM, 2009.
(18) ECJ, Case 161/84, Pronuptia de Paris GmbH v Pronuptia de Paris Irmgard Schillgallis, 28/1/1986, [1986]ECR 353, đoạn 6(d); 25.
(19) ECJ, Case 161/84, Pronuptia de Paris GmbH v Pronuptia de Paris Irmgard Schillgallis, 28/1/1986, [1986]ECR 353, đoạn 6.
(20) www.burgerkingfranchiser.com
NGUỒN: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ - THS. NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN – Đại học Quốc gia TP.HCM
Trích dẫn từ: http://www.nclp.org.vn
(MINH KHUE LAW FIRM: Bài viết được đăng tải với mục đích giáo dục, phổ biến và tuyên truyền về pháp luật cùng với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Bài viết không nhằm mục đích thương mại. Thông tin trên chỉ có giá trị tham khảo, có thể một số nội dung pháp lý không còn hiệu lực tại thời điểm hiện tại. Vì vậy, Quý khách cần tham khảo ý kiến luật sư hoặc chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)
-----------------------------------------------
2. Tư vấn đăng ký mã số, mã vạch;
3. Dịch vụ đăng ký bản quyền tác giả;
4. Đăng ký bảo vệ nhãn hiệu tại Hoa Kỳ;
5. Tư vấn về thủ tục đăng ký bảo vệ nhãn hiệu;
6. Đăng ký bảo vệ nhãn hiệu tại Liên minh châu Âu;