Vậy tôi xin nhờ các anh chị tư vấn giúp trường hợp của tôi thuộc phạm vi dân sự hay hình sự và hướng giải quyết nào là phù hợp? Tôi chân thành cảm ơn! Người gửi: B.T.D
Câu hỏi được biên soạn từ chuyên mục tư vấn pháp luật dân sự của Mytour.
Trả lời:
Chào bạn! Vấn đề của bạn, Mytour xin được trả lời như sau:
1. Căn cứ pháp lý:
Bộ luật dân sự năm 2005
Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung mới nhất năm 2015
Bộ luật hình sự năm 2009
Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung mới nhất năm 2015
2. Nội dung tư vấn:
Hiện nay, theo quy định tại Điều 401 Bộ luật Dân sự, quy định về hình thức hợp đồng dân sự như sau:
“1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không qui định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.
2. Trong trường hợp pháp luật có qui định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc phải xin phép thì phải tuân theo các qui định đó.
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có qui định khác”.
Ở đây, bạn đã cho vay số tiền 150 triệu đồng. Theo quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự, số tiền này được xem là tài sản.
Thêm vào đó, tại Điều 471 Bộ luật Dân sự quy định: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại, đúng số lượng và chất lượng, và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định.”
Pháp luật không yêu cầu hợp đồng vay tài sản phải được lập bằng văn bản hay công chứng, chứng thực. Do đó, các bên có thể tự do thỏa thuận hình thức hợp đồng, có thể bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể.
Tuy nhiên, về lãi suất vay, theo quy định tại Khoản 1 Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005, quy định: "Lãi suất vay do các bên tự thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.".
Theo Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 9%/năm, có hiệu lực từ ngày 01/12/2010. Như vậy, lãi suất cho vay không được vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước, tức là 13,5%/năm (1,125%/tháng).
Do đó, việc bạn cho vay với mức lãi suất 7%/tháng là vi phạm pháp luật, vì lãi suất này vượt quá mức lãi suất quy định tại Điều 476 Bộ luật Dân sự. Khi có tranh chấp về lãi suất trong hợp đồng vay, Nhà nước không bảo vệ quyền lợi cho bên cho vay đối với phần lãi suất vượt quá mức quy định của Ngân hàng Nhà nước. Các quy định hiện hành về lãi suất sẽ được áp dụng trong trường hợp này.
Vì vậy, trước hết bạn nên thỏa thuận yêu cầu bạn mình trả lại số tiền 150 triệu đồng. Nếu người bạn đó vẫn cố tình không trả và trốn tránh, bạn có thể khởi kiện tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người bạn đó cư trú hoặc làm việc. Trong trường hợp này, anh ta có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 140 Bộ luật Hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Cụ thể như sau:
Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
đ) Tái phạm nguy hiểm;
e) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.
Nếu người đó không có hành vi "gian dối" hay "trốn tránh" nhằm chiếm đoạt tài sản, thì sẽ không đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này, bạn chỉ có thể thực hiện khởi kiện dân sự để yêu cầu trả lại tài sản theo thỏa thuận trong hợp đồng vay.
Trân trọng./.