1. Căn cứ pháp lý liên quan đến hành vi chậm đóng bảo hiểm y tế
Theo quy định tại Điều 47 của Quyết định 595/QĐ-BHXH năm 2017 và khoản 73 Điều 1 Quyết định 505/QĐ-BHXH năm 2020, pháp luật đã nêu rõ các nội dung như sau:
- Thông tin thẻ bảo hiểm y tế được quản lý thống nhất, liên thông với dữ liệu thu. Khi người bệnh xuất trình thẻ BHYT tại cơ sở khám chữa bệnh, đơn vị tiếp nhận sẽ truy cập hệ thống thông tin giám định BHYT để kiểm tra hiệu lực của thẻ. Căn cứ vào kết quả tra cứu, cơ sở KCB có trách nhiệm thực hiện các thủ tục khám chữa bệnh tương ứng:
+ Thanh toán chi phí khám, chữa bệnh BHYT đối với trường hợp người tham gia đang trong thời gian đóng và thẻ BHYT còn hiệu lực.
+ Không thực hiện thanh toán chi phí khám, chữa bệnh BHYT cho những trường hợp đã được báo giảm đóng BHYT, mặc dù tại thời điểm khám chữa bệnh, thẻ BHYT vẫn còn thời hạn sử dụng.
- Thẻ BHYT có thời hạn hiệu lực tương ứng với mức đóng và thời điểm nộp tiền BHYT. Cụ thể như sau:
Đối với các nhóm đối tượng quy định tại Khoản 1, 2 và 3 Điều 17 Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi năm 2014: thẻ BHYT bắt đầu có giá trị kể từ ngày tham gia đóng BHYT, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt được quy định như sau:
+ Trường hợp người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp, thẻ BHYT có hiệu lực từ ngày bắt đầu hưởng trợ cấp thất nghiệp được ghi rõ trong quyết định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
+ Đối với người dân tộc thiểu số cư trú tại khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn; người đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo: thẻ BHYT có hiệu lực từ ngày 01/01 đến hết ngày 31/12 trong cùng năm.
+ Đối với người thuộc hộ nghèo hoặc cận nghèo được ngân sách nhà nước hỗ trợ toàn bộ mức đóng BHYT: thẻ BHYT có hiệu lực từ ngày 01/01 đến ngày 31/12 trong năm. Trường hợp cơ quan Bảo hiểm xã hội tiếp nhận danh sách tham gia BHYT kèm theo Quyết định phê duyệt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau ngày 01/01, thì thẻ BHYT được sử dụng từ ngày Quyết định đó có hiệu lực.
Những đối tượng thuộc Khoản 4 và 5 Điều 17 Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi năm 2014 có thời gian tham gia BHYT liên tục sẽ được cấp thẻ có hiệu lực từ ngày nộp tiền đóng BHYT. Nếu người tham gia lần đầu hoặc gián đoạn tham gia từ 3 tháng trở lên trong năm tài chính, thẻ BHYT chỉ có hiệu lực sau 30 ngày tính từ ngày hoàn tất việc đóng tiền.
Đối tượng thuộc Khoản 1 Điều 17 Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi năm 2014 nếu chậm đóng BHYT từ 30 ngày trở lên thì thẻ BHYT không còn giá trị sử dụng. Trong trường hợp người lao động phát sinh chi phí khám chữa bệnh trong thời gian thẻ hết hạn, cơ quan BHXH sẽ thực hiện thanh toán trực tiếp theo quy định sau khi đơn vị sử dụng lao động đã nộp đủ số tiền chậm đóng. Đồng thời, đơn vị sử dụng lao động phải chịu trách nhiệm theo quy định tại Điều 49 của Luật BHYT sửa đổi, bổ sung.
- Người đang tham gia BHYT có thể thay đổi nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu vào tháng đầu tiên của mỗi quý.
- Người lao động đang hưởng chế độ ốm đau hoặc thai sản được tiếp tục sử dụng thẻ BHYT hiện có mà không cần đổi thẻ. Trường hợp nghỉ không hưởng lương trong thời gian này và đơn vị sử dụng lao động đã lập hồ sơ nghỉ hưởng chế độ thai sản, thì thẻ BHYT sẽ có hiệu lực từ tháng bắt đầu nghỉ thai sản cho đến khi kết thúc thời hạn ghi trên thẻ đã cấp.
- Đối với người lao động nghỉ dài hạn do ốm đau hoặc nghỉ để hưởng chế độ hưu trí, thẻ BHYT đã được cấp vẫn có hiệu lực đến hết tháng mà đơn vị báo giảm. Dựa trên danh sách báo giảm, cơ quan BHXH sẽ lập Danh sách người chỉ tham gia BHYT (theo Mẫu D03-TS) cho các đối tượng thuộc diện nghỉ dài hạn do ốm đau hoặc đang nhận lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng. Thẻ BHYT mới sẽ có hiệu lực từ ngày đầu tiên của tháng liền sau tháng báo giảm.
2. Việc công ty chậm nộp tiền đóng BHYT có vi phạm pháp luật không?
Theo Điều 1 Nghị định 146/2018/NĐ-CP, người lao động ký hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên thuộc nhóm đối tượng mà trách nhiệm đóng BHYT được chia sẻ giữa người sử dụng lao động và người lao động.
Căn cứ theo quy định, mỗi tháng người lao động đóng 1,5% tiền lương vào Quỹ BHYT, trong khi người sử dụng lao động phải đóng tương ứng 3% mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH cho người lao động.
Mỗi tháng, trước ngày cuối cùng của tháng, doanh nghiệp có nghĩa vụ thanh toán khoản tiền BHYT cho cơ quan Bảo hiểm Xã hội.
Tuy nhiên, theo Khoản 73 Điều 1 của Quyết định 505/QĐ-BHXH sửa đổi, bổ sung Quyết định số 595/QĐ-BHXH, đã có quy định như sau:
"Đối tượng quy định tại Khoản 1 Điều 17 nếu chậm đóng BHYT từ 30 ngày trở lên, đơn vị sử dụng lao động phải chịu trách nhiệm theo Điều 49 của Luật Bảo hiểm Y tế sửa đổi, bổ sung."
Theo quy định, nếu việc chậm đóng BHYT kéo dài từ 30 ngày trở lên, người sử dụng lao động sẽ bị xử phạt vi phạm theo Điều 49 của Luật Bảo hiểm Y tế. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp chỉ có thể chậm đóng BHYT tối đa 29 ngày. Sau thời gian này, doanh nghiệp sẽ bị xử phạt theo quy định của Luật Bảo hiểm Y tế. Vì vậy, để tránh vi phạm và đảm bảo tuân thủ pháp luật, doanh nghiệp cần thực hiện việc đóng BHYT đúng hạn.
Khi doanh nghiệp chậm đóng BHYT gần một tháng, quyền lợi của người lao động khi sử dụng BHYT sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nếu doanh nghiệp chậm đóng BHYT, người lao động sẽ không được cấp thẻ BHYT hoặc nếu thẻ đã có, thẻ đó sẽ không được gia hạn. Kết quả là thẻ BHYT không còn hiệu lực. Trong trường hợp người lao động gặp tai nạn hoặc bệnh tật và cần điều trị, họ sẽ phải tự chi trả toàn bộ chi phí khám chữa bệnh.
Tuy nhiên, người lao động vẫn có quyền yêu cầu quyền lợi BHYT từ phía người sử dụng lao động. Theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 49 của Luật BHYT năm 2008, đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2014, quyền lợi này được quy định rõ như sau:
Trong trường hợp người sử dụng lao động không đóng đầy đủ hoặc không đóng BHYT theo quy định của pháp luật, họ sẽ phải chịu các hình thức xử lý sau:
- Người sử dụng lao động phải hoàn trả toàn bộ chi phí mà người lao động đã chi trả cho việc sử dụng BHYT trong thời gian chưa có thẻ BHYT.
Điều này có nghĩa là, khi người lao động đi khám bệnh mà chưa có thẻ BHYT, người sử dụng lao động sẽ phải hoàn lại toàn bộ chi phí mà người lao động đã trả trong thời gian đó.
- Người sử dụng lao động phải nộp đầy đủ số tiền BHYT còn thiếu, cùng với tiền lãi tương đương hai lần lãi suất liên ngân hàng, được tính dựa trên số tiền chưa đóng và thời gian chậm đóng.
Ngoài việc phải hoàn trả chi phí và chịu phạt hành chính, việc trễ hạn đóng BHYT còn có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng đối với người sử dụng lao động. Số lượng lao động bị vi phạm càng nhiều, mức phạt hành chính mà người sử dụng lao động phải đối mặt càng cao. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 80 của Nghị định 117/2020/NĐ-CP, mức phạt có thể lên đến 40 triệu đồng.
Điều đáng lo ngại hơn là, trong trường hợp trốn đóng BHYT, người sử dụng lao động có thể bị xử lý hình sự. Hành vi này được quy định tại Điều 216 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2017. Nếu người sử dụng lao động cố tình không đóng BHYT hoặc tìm cách trốn tránh nghĩa vụ này, họ có thể phải chịu trách nhiệm hình sự và bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Do đó, việc đóng BHYT đúng hạn là vô cùng quan trọng, không chỉ để bảo vệ quyền lợi của người lao động mà còn giúp người sử dụng lao động tránh được các hậu quả pháp lý nghiêm trọng. Cần phải đảm bảo đóng BHYT đúng thời gian quy định, để mọi nhân viên trong doanh nghiệp đều được bảo vệ sức khỏe đầy đủ và an toàn. Trong trường hợp công ty không đóng BHYT đúng hạn, người lao động có quyền yêu cầu quyền lợi và người sử dụng lao động phải chịu trách nhiệm hoàn trả chi phí và nộp tiền lãi tương ứng.
3. Trong trường hợp công ty không đóng BHYT đúng hạn, người lao động có bị cắt quyền sử dụng bảo hiểm hay không?
Việc trễ hạn đóng bảo hiểm y tế có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người lao động khi cần đi khám và điều trị bệnh bằng bảo hiểm y tế.
Khi công ty không đóng bảo hiểm y tế đúng hạn, người lao động sẽ phải đối mặt với một số vấn đề nghiêm trọng:
- Không được cấp thẻ bảo hiểm y tế hoặc thẻ bảo hiểm y tế sẽ không được gia hạn: Điều này đồng nghĩa với việc người lao động không thể sử dụng bảo hiểm y tế trong thời gian công ty chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng. Điều này sẽ hạn chế khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế cần thiết và ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động.
- Thẻ bảo hiểm y tế đã cấp trước đó sẽ không còn hiệu lực: Nếu người lao động đã được cấp thẻ bảo hiểm y tế và còn thời gian sử dụng, nhưng trong thời gian công ty chậm đóng, thẻ này sẽ không có giá trị và không thể dùng để thanh toán chi phí khám chữa bệnh.
Hậu quả là, khi công ty không đóng bảo hiểm y tế đúng hạn, nếu người lao động gặp phải tình trạng khẩn cấp như ốm đau hoặc tai nạn và cần phải đi khám chữa bệnh, họ sẽ phải tự chi trả toàn bộ chi phí điều trị, thuốc men, hoặc các xét nghiệm cần thiết.
Điều này gây ra một gánh nặng tài chính lớn và có thể làm tăng nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động, đặc biệt là trong những tình huống y tế nghiêm trọng. Vì vậy, việc đảm bảo thanh toán bảo hiểm y tế đúng hạn là rất quan trọng, giúp bảo vệ quyền lợi và sức khỏe của người lao động một cách toàn diện.