Luật sư tư vấn:
1. Những vướng mắc liên quan đến đối tượng được cấp dưỡng
Mặc dù quy định hiện hành về đối tượng cấp dưỡng khi cha mẹ ly hôn đã cơ bản đầy đủ, tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy vẫn còn tồn tại một số vướng mắc cần được làm rõ:
Một trong các vấn đề là chưa có quy định rõ ràng về điều kiện “không có khả năng lao động” của người được cấp dưỡng.
Hiện tại, không có văn bản pháp luật nào giải thích thế nào là “không có khả năng lao động”. Trong thực tế, khi áp dụng quy định này, Tòa án thường bỏ qua trường hợp con đã trưởng thành nhưng vẫn đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, hoặc học nghề.
Thực tế có nhiều trường hợp con đã đủ 18 tuổi nhưng đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng hệ chính quy, không có đủ thời gian để tham gia lao động kiếm thu nhập. Dù nếu có thời gian làm việc, với quỹ thời gian hạn chế, thu nhập của các con cũng không đủ để đáp ứng nhu cầu cơ bản, chưa kể điều đó có thể ảnh hưởng đến kết quả học tập. Vậy trong trường hợp này, liệu có thể coi là không có khả năng lao động không?
Quy định hiện tại quá mơ hồ và thiếu hướng dẫn chi tiết, dẫn đến việc hiểu sai và không giải quyết được các vấn đề thực tế, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các con. Hơn nữa, khi con vào học các trường chuyên nghiệp, nhu cầu thiết yếu của các con tăng lên nhưng lại không được cấp dưỡng, gây khó khăn cho cả con và người trực tiếp nuôi dưỡng.
Chị Nguyễn Hiền Anh ở Nghĩa Tân, Cầu Giấy, Hà Nội là một ví dụ điển hình cho thấy rõ sự bất cập của quy định hiện hành về đối tượng được cấp dưỡng khi cha mẹ ly hôn.
Chị Hiền Anh hỏi: “Chúng tôi đã ly hôn, có một con gái 19 tuổi hiện đang học đại học. Vì việc học của con cần nhiều chi phí, tôi yêu cầu chồng cũ chu cấp tiền nuôi con cho đến khi con hoàn thành đại học, nhưng anh ta từ chối, cho rằng đã nuôi con đủ 18 năm theo quy định và không còn trách nhiệm nữa. Anh ta hiện đã có gia đình mới và không thể tiếp tục chu cấp. Tôi muốn biết, pháp luật có quy định gì về việc nuôi con học xong đại học không?”
Ngoài ra, liên quan đến vấn đề khả năng lao động, Điều 9 Thông tư 111/2013/TT-BTC đã quy định cụ thể về đối tượng phụ thuộc của người nộp thuế, bao gồm các trường hợp sau:
“1.2) Con từ 18 tuổi trở lên bị khuyết tật, không có khả năng lao động.
d.1.3) Con đang theo học tại Việt Nam hoặc nước ngoài tại bậc học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, kể cả con từ 18 tuổi trở lên đang học bậc học phổ thông (tính cả trong thời gian chờ kết quả thi đại học từ tháng 6 đến tháng 9 năm lớp 12) không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng”
Cụ thể, pháp luật thuế công nhận con đang học ở các cấp đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, cũng như con từ 18 tuổi trở lên đang học phổ thông, không có thu nhập, là người phụ thuộc của người nuôi dưỡng. Vì vậy, Luật Hôn nhân và Gia đình cần được sửa đổi để quy định rõ ràng hơn về đối tượng cấp dưỡng khi cha mẹ ly hôn, phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành và đảm bảo quyền lợi chính đáng của con cái.
Như vậy, quy định về khả năng lao động trong việc cấp dưỡng khi ly hôn cần được xem xét và bổ sung sao cho phù hợp với thực tế.
Thêm vào đó, pháp luật hiện hành chưa quy định rõ ràng về điều kiện “có tài sản để tự nuôi mình” của người được cấp dưỡng.
Theo Điều 110 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, khi cha mẹ ly hôn, nếu con đã thành niên, không có khả năng lao động, nhưng có tài sản đủ để tự nuôi dưỡng bản thân, thì con sẽ không được cấp dưỡng. Vậy, căn cứ nào để Tòa án xác định người yêu cầu cấp dưỡng có tài sản đủ để tự nuôi mình? Hiện tại, chưa có hướng dẫn chi tiết về vấn đề này. Mặc dù nhiều tác giả đã đưa ra quan điểm về việc làm rõ khái niệm “có tài sản để tự nuôi mình”, nhưng đây chỉ là các quan điểm cá nhân và không thể coi là cơ sở áp dụng trong pháp luật.
Do đó, để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan, cần có quy định rõ ràng về điều kiện “có tài sản để tự nuôi mình” của người được cấp dưỡng, nhằm tạo sự đồng bộ và thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật sau này.
2. Vấn đề về phương thức cấp dưỡng một lần
Các quy định pháp luật hiện hành về phương thức cấp dưỡng một lần vẫn còn nhiều bất cập, khiến việc áp dụng trong thực tế chưa phát huy hết được những ưu điểm của phương thức này, cụ thể như sau:
2.1 Các căn cứ để xác định khoản cấp dưỡng một lần
Nghĩa vụ cấp dưỡng thường kéo dài trong thời gian dài, và trong một số trường hợp, không thể xác định được thời hạn cụ thể (như con thành niên mất khả năng lao động hoàn toàn và không có tài sản để tự nuôi mình), việc ấn định mức cấp dưỡng cho cả giai đoạn cấp dưỡng là điều cần thiết. Tuy nhiên, liệu mức cấp dưỡng một lần có đủ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng và khả năng của bên có nghĩa vụ cấp dưỡng tại thời điểm Tòa án giải quyết hay không vẫn chưa được xác định rõ ràng.
2.2 Quản lý khoản cấp dưỡng một lần
Giả sử, trong trường hợp con chưa thành niên nhưng đã đủ 16 tuổi và dưới 18 tuổi (theo Khoản 4 Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015), thì khoản tiền cấp dưỡng sẽ trở thành tài sản riêng của người con và người này có quyền quản lý tài sản đó. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp cha mẹ ly hôn đã dẫn đến tâm lý tiêu cực ở trẻ em, một số trẻ không hài lòng và rơi vào tình trạng sa đọa, tiêu xài phung phí số tiền cấp dưỡng một cách không có kế hoạch, tham gia vào những cuộc vui tiêu cực trong thời gian ngắn. Cuối cùng, hậu quả sẽ đổ lên vai người trực tiếp nuôi dưỡng con.
Trước đây, Khoản 3 và Khoản 4 Điều 18 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP đã quy định về việc quản lý khoản cấp dưỡng một lần như sau: “Theo yêu cầu của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, khoản cấp dưỡng một lần có thể được gửi tại ngân hàng hoặc giao cho người được cấp dưỡng, người giám hộ của người được cấp dưỡng quản lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Người được giao quản lý khoản cấp dưỡng một lần có trách nhiệm bảo quản tài sản đó như tài sản của chính mình và chỉ được sử dụng để đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.” Tuy nhiên, quy định này đã hết hiệu lực và hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn thay thế, gây ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của phương thức cấp dưỡng một lần trong thực tế.
Việc có một quy định rõ ràng về quản lý khoản cấp dưỡng một lần là rất quan trọng. Điều này không chỉ tối ưu hóa hiệu quả của phương thức cấp dưỡng này mà còn đảm bảo việc cấp dưỡng hàng tháng một cách đều đặn, không phải áp dụng các biện pháp tư pháp khác.
2.3 Không có quy định về yêu cầu cấp dưỡng bổ sung
Khi người được cấp dưỡng gặp phải tình huống khó khăn như bệnh tật hoặc tai nạn đột ngột, và khoản cấp dưỡng trước đó không đủ để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu, liệu họ có quyền yêu cầu người đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trước đó cấp dưỡng bổ sung? Đây chính là một trong những thiếu sót mà các quy định pháp lý hiện hành chưa giải quyết, dẫn đến sự lúng túng và khó khăn trong việc áp dụng thực tế. Trước đây, tại Điều 19 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP, đã có hướng dẫn chi tiết như sau: “Nếu người được cấp dưỡng một lần gặp phải tình trạng khó khăn nghiêm trọng do tai nạn hoặc bệnh tật nặng, và người có nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng cấp dưỡng thêm, thì phải thực hiện cấp dưỡng bổ sung theo yêu cầu của người được cấp dưỡng.” Tuy nhiên, quy định này đã hết hiệu lực và chưa có hướng dẫn thay thế, khiến việc giải quyết vấn đề này vẫn chưa có lời giải.
Để phương thức cấp dưỡng một lần thực sự hiệu quả, cần phải giải quyết triệt để những vấn đề nêu trên.
2.4. Những bất cập trong thực tiễn áp dụng:
Tòa án đã công nhận thỏa thuận của các bên về việc cấp dưỡng một lần, tuy nhiên, khoản cấp dưỡng được xác định lại vượt quá khả năng của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Pháp luật cho phép các bên tự thỏa thuận về mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng cho con, với mục tiêu đưa ra một mức cấp dưỡng hợp lý và thuận tiện cho việc thi hành án. Tuy nhiên, thực tế đã có nhiều trường hợp các bên lợi dụng quy định này để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án khác. Sau khi ly hôn, họ tự nguyện thỏa thuận cấp dưỡng cho con với số tiền rất lớn và lựa chọn phương thức cấp dưỡng một lần. Tòa án công nhận sự thỏa thuận này mà không xem xét khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Đến khi thi hành án, cơ quan thi hành án mới phát hiện sự bất thường. Một vụ việc nổi bật gần đây tại thành phố Hồ Chí Minh, khi người phải cấp dưỡng đã thỏa thuận cấp dưỡng nuôi con với số tiền lên đến hàng tỷ đồng theo phương thức cấp dưỡng một lần, đã gây ra nhiều tranh cãi.
Ví dụ: Vụ án ly hôn giữa vợ chồng ông T được xét xử tại Tòa án nhân dân quận Tân Bình vào tháng 3/2017. Hai vợ chồng đã thỏa thuận giao hai con chung cho vợ trực tiếp nuôi dưỡng, và ông T có nghĩa vụ cấp dưỡng cho hai con theo phương thức cấp dưỡng một lần với mức cấp dưỡng là 3 tỷ đồng.
Trong quá trình thi hành án, cơ quan thi hành án đã phát hiện sự bất thường, vì rõ ràng ông T, người có nghĩa vụ thi hành án cấp dưỡng, không đủ khả năng thanh toán khoản nợ cho bà Y theo quyết định của TAND Thành phố HCM vào năm 2015.
Cụ thể, khi mua nữ trang từ bà Y, vợ chồng ông T đã nợ bà Y hơn 22.000 USD, tương đương hơn 460 triệu đồng. Bà Y đã khởi kiện, và vào năm 2014, TAND quận 8 buộc ông T và vợ phải trả số tiền này. Ông T đã kháng cáo, và năm 2015, TAND Thành phố HCM xét xử phúc thẩm, sửa bản án và chỉ buộc ông T phải trả tiền cho bà Y.
Vì ông T sở hữu tài sản tại quận 5, Chi cục THADS quận 8 đã chuyển hồ sơ cho Chi cục THADS quận 5 để thi hành án. Vào đầu năm 2016, Chi cục THADS quận 5 đã kê biên một quầy bán hàng của ông T. Tuy nhiên, chị của ông T đã gửi đơn lên tòa yêu cầu tranh chấp quyền sở hữu quầy sạp, dẫn đến việc tạm hoãn bán đấu giá để chờ phán quyết của tòa án.
Cùng lúc đó, vợ ông T đã đệ đơn ly hôn tại TAND quận Tân Bình, mặc dù hai người chưa từng đăng ký kết hôn. Vào tháng 3/2017, TAND quận Tân Bình đã tiếp nhận đơn khởi kiện và không công nhận quan hệ vợ chồng. Tòa án đã ghi nhận sự thỏa thuận giữa hai bên, trong đó vợ ông T sẽ nuôi dưỡng hai con chung (14 tuổi và 9 tuổi), và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con một lần với số tiền là 3 tỷ đồng.
Sau khi bản án hôn nhân có hiệu lực, chị ông T đã rút đơn khởi kiện về việc tranh chấp quầy sạp, dẫn đến TAND quận 5 quyết định đình chỉ vụ án dân sự này. Vì không còn tranh chấp, Chi cục THADS quận 5 đã tổ chức bán đấu giá quầy sạp với giá gần 600 triệu đồng. Mặc dù số tiền này đủ để thanh toán cho người được thi hành án, bà Y, nhưng theo Điều 47 Khoản 1 Luật THADS, số tiền trên phải được ưu tiên để thanh toán bản án cấp dưỡng nuôi con trị giá 3 tỷ đồng.
Trong tình huống này, Chi cục THADS quận 5 đã hai lần gửi công văn đề nghị TAND Cấp cao và VKSND Cấp cao tại TP.HCM xem xét kháng nghị giám đốc thẩm, yêu cầu hủy bản án hôn nhân trước đó để tránh các hậu quả pháp lý. Cơ quan thi hành án cho rằng bản án hôn nhân ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của bà Y, vì thỏa thuận ông T cấp dưỡng nuôi con với số tiền lên tới 3 tỷ đồng là một khoản tiền rất lớn, không phù hợp với khả năng thực tế của ông T và nhu cầu thiết yếu của hai con chung.
Ví dụ, ông Quách Việt Long đã khởi kiện yêu cầu TAND quận 2 không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông và bà Tuyền. Vào tháng 6/2016, TAND quận 2 đã xét xử và tuyên không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Long và bà Tuyền, đồng thời công nhận thỏa thuận giao con chung, một cháu trai 12 tuổi, cho ông Long nuôi dưỡng, và yêu cầu bà Tuyền cấp dưỡng nuôi con một lần với số tiền là 10 tỷ đồng.
Trước đó, vào năm 2012, bà Tuyền đã bán nhà cho ông Toàn và nhận tiền cọc nhưng không chịu hoàn tất thủ tục sang tên tại phòng công chứng, dẫn đến ông Toàn khởi kiện. Tháng 7/2013, TAND quận 2 đã ra quyết định công nhận thỏa thuận giữa bà Tuyền và ông Toàn, yêu cầu bà Tuyền trả cho ông Toàn 7,6 tỷ đồng. Tháng 10/2013, Chi cục THADS quận 2 đã ra quyết định thi hành án. Chi cục này đã kê biên và bán đấu giá căn nhà của bà Tuyền để thi hành án, nhưng việc bán đấu giá chưa kịp thực hiện thì vào tháng 1/2016, bà Tuyền lại bị ông Quách Việt Long khởi kiện yêu cầu TAND quận 2 không công nhận quan hệ vợ chồng. Vào tháng 6/2016, TAND quận 2 đã xét xử vụ kiện này. Bà Tuyền đã đồng ý giao con chung là một cháu trai 12 tuổi cho ông Long nuôi dưỡng và tự nguyện cấp dưỡng nuôi con một lần với số tiền là 10 tỷ đồng. Tháng 9/2016, Chi cục THADS quận 2 đã ra quyết định thi hành án theo yêu cầu của ông Long.
Ngoài nghĩa vụ thi hành án đối với ông Toàn, bà Tuyền còn có trách nhiệm thi hành án trả nợ cho ông Dũng số tiền hơn 1,2 tỷ đồng, theo bản án của TAND quận 2 vào tháng 6/2016. Trước đó, vào năm 2012, ông Dũng đã mua một căn nhà của bà Tuyền tại khu phố 2 (phường Cát Lái, quận 2), đã thanh toán tiền cọc, nhưng bà Tuyền không thực hiện nghĩa vụ giao nhà, dẫn đến việc ông Dũng khởi kiện bà. Tháng 10/2016, Chi cục THADS quận 2 đã ra quyết định thi hành án theo yêu cầu của ông Dũng.
Tính tổng cộng ba vụ việc, bà Tuyền phải thi hành án tổng số tiền gần 19 tỷ đồng. Tuy nhiên, tài sản của bà Tuyền chỉ gồm hai căn nhà tại quận 2, có giá trị khoảng 8,8 tỷ đồng theo định giá, không đủ để thực hiện nghĩa vụ thi hành án đối với cả ba vụ việc. Hơn nữa, theo quy định tại Điều 47 Luật THADS, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con được ưu tiên thanh toán. Nếu hai căn nhà của bà Tuyền được bán đấu giá, ưu tiên sẽ được dành cho việc thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng, khiến ông Toàn và ông Dũng có thể không được thi hành án.
Trong tình huống này, mặc dù bà Tuyền có khả năng thi hành án, bà lại không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ, mà cố tình kéo dài thời gian và tìm cách trốn tránh trách nhiệm. Bà Tuyền nhận thức rõ mình đang phải trả nợ cho ông Toàn, và mặc dù tài sản bán đấu giá không đủ để thi hành, bà vẫn tự nguyện thỏa thuận cấp dưỡng cho con 12 tuổi với số tiền 10 tỷ đồng, điều này không hợp lý và ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ông Toàn và ông Long.
Trước tình hình này, Chi cục THADS quận 2 đã gửi văn bản kiến nghị tới VKSND Cấp cao và TAND Cấp cao tại TP.HCM yêu cầu xem xét lại bản án hôn nhân liên quan đến việc cấp dưỡng của bà Tuyền.
TAND quận 2 khi công nhận thỏa thuận của các bên về mức cấp dưỡng đã không xác minh đầy đủ các bản án mà bà Tuyền phải thi hành và thu nhập thực tế của bà Tuyền. Việc chấp nhận thỏa thuận để bà Tuyền cấp dưỡng nuôi con số tiền 10 tỷ đồng là không phù hợp với khả năng thực tế của bà, và ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ông Toàn và ông Dũng. Thêm vào đó, theo quy định của HN&GĐ năm 2014, cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có khả năng lao động. Với con trai của bà Tuyền đã trên 12 tuổi, việc chia số tiền 10 tỷ đồng để cấp dưỡng cho cháu, nếu tính theo tháng, là không hợp lý, khi mỗi tháng cháu sẽ nhận khoảng 140 triệu đồng. Do đó, quyết định của TAND quận 2 yêu cầu bà Tuyền cấp dưỡng 10 tỷ đồng là không hợp lý với các tình tiết vụ án.
Sau khi xem xét kháng nghị của VKSND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh, Ủy ban thẩm phán TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh đã tiến hành thủ tục giám đốc thẩm và quyết định hủy toàn bộ bản án sơ thẩm của TAND quận 2, đồng thời chuyển hồ sơ cho cơ quan này để xét xử lại từ đầu.
Vụ việc trên cho thấy rằng, ở một số Tòa án sơ thẩm, khi giải quyết vấn đề cấp dưỡng cho con, vẫn còn tồn tại tình trạng sơ xuất, thiếu sót trong việc điều tra, đánh giá và xem xét các tình tiết của vụ án. Việc quyết định cấp dưỡng trong những trường hợp này thiếu cơ sở, gây khó khăn cho quá trình thi hành án và tạo điều kiện cho đương sự trốn tránh nghĩa vụ thanh toán, dẫn đến thiệt hại cho các bên liên quan và ảnh hưởng đến việc thu nộp ngân sách nhà nước.
3. Vướng mắc liên quan đến thời điểm bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Luật HN&GĐ năm 2014 hiện nay chưa quy định rõ ràng về thời điểm bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi ly hôn. Vì lý do này, việc xác định thời điểm cấp dưỡng hiện nay chủ yếu phụ thuộc vào quyết định của các tòa án, dẫn đến sự không đồng nhất trong việc áp dụng pháp luật ở các địa phương. Có tòa án cho rằng nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh khi bản án có hiệu lực, trong khi một số tòa khác cho rằng nghĩa vụ này phát sinh khi người không trực tiếp nuôi con không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trong suốt thời gian hôn nhân.
Ví dụ, trong vụ án ly hôn, khi vợ chồng bị tòa án tuyên bố mất tích và sau một thời gian bản án có hiệu lực, người mất tích trở về, vấn đề đặt ra là phải xác định người đó thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng kể từ thời điểm mất tích hay từ khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật. Trong thực tế xét xử, có nơi tòa án chấp nhận yêu cầu cấp dưỡng từ thời điểm người mất tích không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con, nhưng cũng có nơi chỉ yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng từ khi bản án ly hôn có hiệu lực. Điều này đã tạo ra sự bất đồng trong việc áp dụng pháp luật, do thiếu các quy định cụ thể để thống nhất giải quyết các vụ việc tương tự.
Ngoài ra, vẫn tồn tại nhiều trường hợp vợ chồng ly thân trước khi quyết định ly hôn, và kể từ thời điểm ly thân, con đã được cha hoặc mẹ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tuy nhiên, khi giải quyết ly hôn, bên trực tiếp nuôi con yêu cầu bên còn lại cấp dưỡng kể từ khi không còn sống chung với con, nhưng có tòa án đồng ý, có tòa án lại không. Sự bất đồng này xuất phát từ sự thiếu chặt chẽ trong quy định pháp lý. Một số tòa án căn cứ vào Điều 110 Luật HN&GĐ năm 2014 và yêu cầu cấp dưỡng từ thời điểm ly thân, trong khi các tòa án khác lại căn cứ vào Điều 82 của luật và chỉ yêu cầu cấp dưỡng kể từ khi ly hôn. Do đó, sự không nhất quán trong áp dụng pháp luật đã gây ra những bất cập trong việc thực thi quy định về cấp dưỡng.
Lưu ý:Trong trường hợp cha hoặc mẹ bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con, liệu họ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con không?
Tòa án chỉ thực hiện hành vi hạn chế quyền đối với con, trong khi nghĩa vụ cấp dưỡng cho con là một trách nhiệm pháp lý. Do vậy, dù cha hoặc mẹ bị hạn chế quyền, họ vẫn có nghĩa vụ thực hiện cấp dưỡng cho con. Điều này được quy định rõ ràng tại khoản 3 Điều 87 của Luật Hôn nhân & Gia đình năm 2014: "Cha, mẹ bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con."