1. Định nghĩa văn bản quy phạm pháp luật
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm văn bản pháp luật. Tuy nhiên, có thể hiểu văn bản pháp luật (VBPL) là văn bản do các chủ thể có thẩm quyền ban hành, theo đúng trình tự, thủ tục và hình thức mà pháp luật quy định. Văn bản này thể hiện ý chí của nhà nước, có tính bắt buộc và được bảo đảm bằng quyền lực của nhà nước.
Khi cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới, nếu có sự không phù hợp với các văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm đã được ban hành trước đó, phải sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ các phần đó ngay trong văn bản mới. Nếu không thể sửa đổi ngay lập tức, văn bản mới phải chỉ rõ các nội dung không phù hợp và có trách nhiệm chỉnh sửa trước khi văn bản quy phạm pháp luật mới có hiệu lực.
Thứ nhất, thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại Điều 151 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật như sau:
1. Thời điểm có hiệu lực của toàn bộ hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật sẽ được xác định ngay trong văn bản đó, nhưng không thể sớm hơn 45 ngày kể từ ngày văn bản được thông qua hoặc ký ban hành đối với văn bản của cơ quan nhà nước trung ương; không sớm hơn 10 ngày kể từ ngày ký ban hành đối với văn bản của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; và không sớm hơn 7 ngày đối với văn bản của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã.
2. Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn có thể có hiệu lực kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành. Văn bản này phải được đăng ngay trên Cổng thông tin điện tử của cơ quan ban hành, đồng thời được đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, và được công bố trên Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc Công báo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương không quá 03 ngày kể từ ngày ký ban hành hoặc công bố.
Văn bản pháp luật bao gồm ba nhóm cơ bản: văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính. Mỗi nhóm này có đặc thù riêng về nội dung, tính chất và vai trò trong công tác quản lý nhà nước.
2. Đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản pháp luật có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Văn bản pháp luật được ban hành bởi các chủ thể có thẩm quyền
Tại Việt Nam, các chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật bao gồm: các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ quan nhà nước chỉ có quyền ban hành văn bản pháp luật trong phạm vi, lĩnh vực mà pháp luật giao cho mình. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định rằng một số chủ thể khác, như người đứng đầu các cơ quan nhà nước và thủ trưởng của các đơn vị trực thuộc các cơ quan nhà nước, cũng có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật.
Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành bởi các chủ thể không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật sẽ không có hiệu lực pháp lý.
Văn bản pháp luật phải có hình thức do pháp luật quy định
Hình thức văn bản pháp luật gồm hai yếu tố chính: tên gọi và thể thức của văn bản.
– Về tên gọi: Pháp luật hiện hành quy định nhiều loại văn bản pháp luật với các tên gọi khác nhau, bao gồm: Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị định, nghị quyết, thông tư, và các loại khác.
– Về thể thức: Văn bản quy phạm pháp luật (VBPL) quy định cách thức trình bày theo một mẫu nhất định, đảm bảo tính liên kết giữa hình thức và nội dung, đồng thời duy trì sự thống nhất trong các hoạt động của hệ thống cơ quan nhà nước.
Văn bản pháp luật được ban hành theo một trình tự, thủ tục cụ thể
– Văn bản quy phạm pháp luật (VBPL) được ban hành theo thủ tục, trình tự quy định bởi các văn bản pháp lý như Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật khiếu nại, tố cáo, v.v. Mỗi loại VBPL sẽ có các quy định riêng về thủ tục, nhưng nhìn chung, quy trình này bao gồm các hoạt động chuyên môn và nghiệp vụ nhằm hỗ trợ người soạn thảo, đồng thời tạo ra cơ chế phối hợp và kiểm tra, giám sát từ các cơ quan có thẩm quyền trong việc ban hành VBPL.
Văn bản pháp luật phản ánh ý chí của chủ thể ban hành
Nội dung của văn bản quy phạm pháp luật (VBPL) thể hiện ý chí của chủ thể ban hành. Ý chí này được diễn đạt qua hai hình thức chính: một là các quy phạm pháp luật, bao gồm cấm, cho phép hoặc bắt buộc; hai là các mệnh lệnh do người có thẩm quyền ban hành.
Văn bản pháp luật có tính bắt buộc và được nhà nước bảo đảm thi hành
Nhà nước có thể áp dụng các biện pháp khác nhau để bảo đảm thực thi, chẳng hạn như tuyên truyền, giáo dục, hoặc cưỡng chế. Các tổ chức và cá nhân liên quan có trách nhiệm pháp lý đối với nhà nước nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định trong văn bản pháp luật.
3. Khái niệm về hiệu lực không gian của văn bản quy phạm pháp luật
Hiệu lực không gian của văn bản quy phạm pháp luật là tính bắt buộc của văn bản đối với các chủ thể pháp lý trong phạm vi không gian mà pháp luật tác động tới các quan hệ xã hội.
Hiệu lực không gian của văn bản quy phạm pháp luật đề cập đến phạm vi lãnh thổ mà văn bản này có giá trị tác động. Phạm vi này có thể bao gồm một địa phương cụ thể, toàn quốc hoặc một khu vực rộng hơn.
4. Phân loại văn bản quy phạm pháp luật theo hiệu lực không gian
Căn cứ vào hiệu lực không gian, văn bản quy phạm pháp luật có thể được chia thành hai nhóm chính:
1) Văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực toàn quốc, bao gồm: Hiến pháp, bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc hội,...
2) Văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trong phạm vi từng địa phương là các văn bản do Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp ban hành.
5. Phương pháp xác định hiệu lực không gian của văn bản quy phạm pháp luật
Hiệu lực không gian của văn bản quy phạm pháp luật có thể được xác định theo các phương thức sau:
Đầu tiên, xác định dựa trên các quy định trong chính văn bản đó.
Chẳng hạn, Khoản 1 Điều 5 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: “Bộ luật Hình sự áp dụng đối với tất cả các hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Quy định này cũng áp dụng đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam, hoặc tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam.
Điều 6 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định rằng:
1 – Công dân Việt Nam hoặc pháp nhân thương mại Việt Nam nếu thực hiện hành vi phạm tội ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Bộ luật này coi là tội phạm, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo quy định của Bộ luật này.
Quy định này cũng áp dụng đối với những người không quốc tịch nhưng thường trú tại Việt Nam.
2 – Người nước ngoài hoặc pháp nhân thương mại nước ngoài thực hiện hành vi phạm tội ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật này trong trường hợp hành vi phạm tội xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam, hoặc gây tổn hại lợi ích của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoặc theo các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
3 – Đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển không mang quốc tịch Việt Nam, đang ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tại biển cả hoặc tại vùng trời ngoài lãnh thổ, người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này, nếu điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định.
Các quy định trên cho thấy rằng phạm vi lãnh thổ chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Hình sự năm 2015 không chỉ bao trùm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam mà còn có thể áp dụng ngoài lãnh thổ Việt Nam trong các trường hợp nhất định.
Thứ hai, nếu văn bản không quy định rõ, có thể xác định hiệu lực theo thẩm quyền của cơ quan ban hành hoặc căn cứ vào nội dung của văn bản. Thông thường, văn bản của cơ quan nhà nước trung ương có hiệu lực trên toàn quốc, trong khi văn bản của cơ quan nhà nước địa phương chỉ có hiệu lực trong phạm vi địa phương đó. Tuy nhiên, cũng có trường hợp văn bản của cơ quan nhà nước trung ương chỉ có hiệu lực ở một số địa phương cụ thể, tùy thuộc vào nội dung của văn bản. Ví dụ, các quy định về giao đất, giao rừng chỉ có hiệu lực tại khu vực có rừng.
6. Xác định văn bản quy định chi tiết thi hành hết hiệu lực
a) Khi văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực, văn bản quy định chi tiết thi hành các Điều, Khoản, điểm có liên quan cũng sẽ hết hiệu lực đồng thời.
b) Khi một văn bản quy phạm pháp luật được quy định chi tiết và có phần hết hiệu lực, các điều khoản chi tiết này cũng sẽ hết hiệu lực cùng lúc với phần hết hiệu lực của văn bản chính. Nếu không xác định được phần hết hiệu lực của văn bản quy định chi tiết, thì văn bản đó sẽ mất hiệu lực hoàn toàn.
c) Nếu một văn bản quy định chi tiết nhiều văn bản quy phạm pháp luật, và chỉ một hoặc một số trong các văn bản đó hết hiệu lực, thì các điều khoản quy định chi tiết sẽ hết hiệu lực cùng lúc với các văn bản đó. Trong trường hợp không xác định được phần hết hiệu lực của văn bản quy định chi tiết thi hành, thì văn bản đó sẽ hết hiệu lực hoàn toàn.