Khi nào hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực trong trường hợp bất động sản không cần đăng ký quyền sở hữu?
Dựa theo quy định tại Điều 459 của Bộ luật Dân sự 2015, việc tặng cho bất động sản được quy định như sau:
Tặng cho bất động sản
1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật.
2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản.
Theo quy định này, việc tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực, hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản yêu cầu đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật.
Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực từ khi nào trong trường hợp bất động sản không yêu cầu đăng ký quyền sở hữu? Nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu, hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm đăng ký.
Theo Điều 107 của Bộ luật Dân sự 2015, quy định về bất động sản và động sản được nêu như sau:
Bất động sản và động sản
1. Bất động sản bao gồm:
a) Đất đai;
b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;
c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng;
d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật.
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.
Căn cứ theo quy định nêu trên, tài sản là bất động sản không cần đăng ký quyền sở hữu có thể bao gồm các tài sản gắn liền với đất đai, nhà cửa, công trình xây dựng, hoặc các loại tài sản khác theo pháp luật.
Do đó, hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực từ thời điểm chuyển giao tài sản khi bất động sản tặng cho không yêu cầu đăng ký quyền sở hữu.

Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực từ khi nào nếu bất động sản tặng cho không yêu cầu đăng ký quyền sở hữu? (Hình từ Internet).
Bên tặng cho bất động sản có quyền yêu cầu bên nhận tặng cho thực hiện các nghĩa vụ nào sau khi nhận tài sản không?
Căn cứ theo Điều 462 của Bộ luật Dân sự 2015, việc tặng cho tài sản có điều kiện được quy định như sau:
Tặng cho tài sản có điều kiện
1. Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện.
3. Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Theo quy định về tặng cho tài sản có điều kiện, bên tặng cho có thể yêu cầu bên nhận tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho phải hợp pháp và không trái với đạo đức xã hội.
Do đó, bên tặng cho bất động sản có quyền yêu cầu bên nhận tặng cho thực hiện một số nghĩa vụ sau khi nhận tài sản.
Bên tặng cho bất động sản có nghĩa vụ thông báo cho bên nhận tặng cho về các khuyết tật của bất động sản tặng cho không?
Căn cứ theo Điều 461 của Bộ luật Dân sự 2015, quy định về nghĩa vụ thông báo khuyết tật của tài sản tặng cho như sau:
Thông báo khuyết tật tài sản tặng cho
Bên tặng cho có nghĩa vụ thông báo cho bên được tặng cho khuyết tật của tài sản tặng cho. Trường hợp bên tặng cho biết tài sản có khuyết tật mà không thông báo thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra cho người được tặng cho; nếu bên tặng cho không biết về khuyết tật của tài sản tặng cho thì không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Vì vậy, theo quy định về việc thông báo khuyết tật của tài sản tặng cho, bên tặng cho có nghĩa vụ thông báo cho bên nhận tặng cho về các khuyết tật của tài sản này.
Do đó, bên tặng cho bất động sản phải thông báo cho bên nhận tặng cho về các khuyết tật của bất động sản tặng cho.
Trong trường hợp bên tặng cho biết bất động sản tặng cho có khuyết tật nhưng không thông báo, bên tặng cho sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường cho những thiệt hại mà người nhận tặng cho gánh chịu.
Nếu bên tặng cho không biết về khuyết tật của tài sản tặng cho, họ sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.