Trả lời:
1. Cơ sở pháp lý:
- Bộ luật dân sự 2015
2. Luật sư giải đáp:
1.Khái niệm:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một hình thức trách nhiệm dân sự phát sinh từ các hành vi gây thiệt hại trái pháp luật. Trong mọi xã hội, hiện tượng gây thiệt hại cho các chủ thể khác là điều thường gặp, và một giải pháp cụ thể để bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại là việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người gây ra thiệt hại. Chính vì vậy, trách nhiệm dân sự được thiết lập nhằm giải quyết những tổn thất và thiệt hại về quyền lợi khi có sự cố xảy ra.
Hiến pháp 1992, với tư cách là văn bản pháp lý cao nhất, đã khẳng định quyền lợi của người bị thiệt hại, bao gồm quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự trước các hành vi xâm phạm quyền lợi của mình. Quy định này trong Hiến pháp chính là cơ sở pháp lý để phát triển hệ thống quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, và cả các trường hợp bồi thường khác.
Trách nhiệm dân sự phát sinh giữa các chủ thể không có quan hệ hợp đồng trước đó hoặc mặc dù có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc phạm vi nghĩa vụ của hợp đồng đã ký kết.
Từ khái niệm trên, có thể thấy rằng: (i) giữa bên gây thiệt hại và người bị thiệt hại không tồn tại bất kỳ quan hệ hợp đồng nào, thậm chí có thể chưa từng có mối quan hệ nào giữa họ, ví dụ như bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông hoặc các vụ ẩu đả; hoặc (ii) mặc dù giữa các bên có quan hệ hợp đồng, nhưng hành vi gây thiệt hại lại không liên quan đến việc vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng đó. Thêm vào đó, có thể có trường hợp các quyền và lợi ích của cá nhân đã được pháp luật bảo vệ mặc nhiên, bất kể có quan hệ hợp đồng hay không (ví dụ như việc bồi thường thiệt hại của chủ xe đối với hành khách trong trường hợp tai nạn xảy ra, được xem là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng).
Một ví dụ sau đây có thể giúp phân biệt rõ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và bồi thường thiệt hại phát sinh từ hợp đồng: trong trường hợp máy nén khí (dùng để bơm vỏ xe hoặc bơm nước) bị phát nổ do vỏ bình không chịu được áp suất, gây thiệt hại về sức khỏe cho chủ sở hữu máy. Lúc này, có hai thiệt hại và mỗi thiệt hại sẽ được bồi thường theo các quy định khác nhau.
2.Đặc điểm:
- Căn cứ phát sinh trách nhiệm cũng chính là cơ sở để xác định nghĩa vụ của các bên.
- Do đó, khi trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện xong, quan hệ nghĩa vụ giữa các bên cũng chấm dứt. Điều này khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, khi các bên có thể thỏa thuận về việc chấm dứt hợp đồng sau khi bồi thường, hoặc nếu không có thỏa thuận, quan hệ hợp đồng vẫn tiếp tục tồn tại cho đến khi bị chấm dứt theo các quy định pháp luật.
- Nội dung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định hoàn toàn bởi pháp luật, bao gồm cơ sở phát sinh, chủ thể chịu trách nhiệm, phương thức và mức bồi thường, tất cả đều đã được pháp luật xác định trước và không phụ thuộc vào thỏa thuận giữa các bên. Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có thể được so sánh với hình thức phạt vi phạm trong hợp đồng, nhưng các bên không thể giới hạn trách nhiệm giống như trong quan hệ hợp đồng.
- Bên gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường ngay cả khi không có lỗi. Mặc dù lỗi là yếu tố cơ bản để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nhưng trong các trường hợp mà pháp luật đã quy định sẵn, người gây thiệt hại vẫn phải bồi thường dù không có lỗi (Khoản 2 Điều 604). Cụ thể, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh từ các nguồn nguy hiểm cao độ (Điều 623) và từ hành vi gây ô nhiễm môi trường (Điều 624).
- Trách nhiệm bồi thường bao gồm cả thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần, bao gồm thiệt hại trực tiếp và gián tiếp. Bộ luật Dân sự và các văn bản hướng dẫn quy định rõ rằng người gây thiệt hại phải bồi thường: (i) thiệt hại vật chất, đây là thiệt hại chủ yếu và trực tiếp nhất; (ii) thiệt hại tinh thần, thường là thiệt hại thứ phát và không phải lúc nào cũng phát sinh, ví dụ như thiệt hại về tài sản không làm phát sinh thiệt hại tinh thần. Thêm vào đó, các thiệt hại phải bồi thường không chỉ bao gồm thiệt hại hiện tại mà còn cả những thiệt hại có thể xảy ra trong tương lai có liên quan nhân quả với hành vi gây thiệt hại. Ngoài ra, người gây thiệt hại phải bồi thường cho cả những người có liên quan (ví dụ như bồi thường thu nhập cho người chăm sóc nạn nhân hoặc bồi thường tinh thần cho gia đình người bị thiệt hại về tính mạng).
- Các căn cứ xử lý trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định trong Bộ luật Dân sự, các luật liên quan và các văn bản hướng dẫn thi hành, đặc biệt là Nghị quyết 03 ngày 08/07/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
3.Ý nghĩa:
- Bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự cá nhân; tài sản, danh dự, uy tín của tổ chức;
- Nâng cao ý thức về việc tuân thủ pháp luật, tôn trọng quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác;
- Ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật: thông qua việc áp dụng các trách nhiệm pháp lý, các quy định pháp luật giúp các chủ thể nhận thức được các hậu quả bất lợi sẽ phải chịu khi có hành vi vi phạm pháp luật, từ đó phát huy tác dụng ngăn ngừa.
Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.