1. Quy định pháp lý hiện hành về người yêu cầu công chứng
- Theo quy định tại khoản 3 Điều 2 của Luật Công chứng 2014, người yêu cầu công chứng bao gồm cá nhân hoặc tổ chức, cả trong nước và quốc tế, có nhu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch hoặc bản dịch theo yêu cầu của Luật Công chứng (công chứng là hành động mà công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng xác nhận tính xác thực và hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch bằng văn bản, cũng như tính chính xác, hợp pháp, và sự phù hợp đạo đức xã hội của bản dịch các giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang ngôn ngữ nước ngoài hoặc ngược lại, khi yêu cầu công chứng của pháp luật hoặc tự nguyện yêu cầu công chứng).
Như vậy, theo quy định pháp luật, người yêu cầu công chứng có thể là cá nhân hoặc tổ chức trong nước hoặc quốc tế có yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch hoặc bản dịch theo yêu cầu của pháp luật.
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Luật Công chứng 2014, nếu người yêu cầu công chứng là cá nhân, họ phải có năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp người yêu cầu công chứng là tổ chức, việc yêu cầu công chứng sẽ được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của tổ chức đó. Người yêu cầu công chứng có nghĩa vụ xuất trình đầy đủ giấy tờ cần thiết liên quan và chịu trách nhiệm về tính chính xác cũng như hợp pháp của các giấy tờ này.
- Về quy định liên quan đến việc ký và điểm chỉ trong văn bản công chứng, tại khoản 1 Điều 48 Luật Công chứng 2014 có quy định:
+ Người yêu cầu công chứng phải ký hợp đồng, giao dịch trước mặt công chứng viên. Nếu người có thẩm quyền ký kết hợp đồng của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp khác đã đăng ký chữ ký mẫu tại tổ chức hành nghề công chứng, người đó có thể ký trước vào hợp đồng. Công chứng viên sẽ đối chiếu chữ ký trong hợp đồng với chữ ký mẫu trước khi tiến hành công chứng.
+ Nếu người yêu cầu công chứng không thể ký do khuyết tật hoặc không biết ký, pháp luật cho phép họ sử dụng điểm chỉ thay thế việc ký. Khi điểm chỉ, người yêu cầu công chứng phải dùng ngón tay trỏ phải; nếu không thể, họ sẽ dùng ngón trỏ trái. Nếu vẫn không thể sử dụng hai ngón tay này, họ có thể điểm chỉ bằng ngón khác và phải ghi rõ việc điểm chỉ bằng ngón nào và tay nào (theo khoản 2 Điều 48 Luật Công chứng 2014).
+ Pháp luật cũng quy định rằng việc điểm chỉ có thể được thực hiện đồng thời với việc ký khi công chứng di chúc, theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng hoặc khi công chứng viên thấy cần thiết để bảo vệ quyền lợi của người yêu cầu công chứng (căn cứ khoản 3 Điều 48 Luật Công chứng 2014).
- Theo Điều 52 Luật Công chứng 2014, các đối tượng có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu bao gồm công chứng viên, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cũng như cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có cơ sở cho rằng công chứng vi phạm pháp luật. Do đó, người yêu cầu công chứng có quyền đề nghị Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu khi có căn cứ cho rằng việc công chứng vi phạm pháp luật.
2. Các tình huống yêu cầu có sự tham gia của người làm chứng hoặc người phiên dịch theo quy định hiện hành của pháp luật
Theo quy định pháp luật hiện nay, việc công chứng không nhất thiết luôn cần có người làm chứng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể, công chứng phải có sự tham gia của người làm chứng. Những trường hợp này bao gồm:
- Theo khoản 2 Điều 47 Luật Công chứng 2014, khi người yêu cầu công chứng không thể đọc, không thể nghe, không thể ký, hoặc không thể điểm chỉ, hoặc trong các tình huống khác do pháp luật quy định, công chứng bắt buộc phải có người làm chứng. Người làm chứng phải từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không có lợi ích hoặc nghĩa vụ liên quan đến việc công chứng. Người yêu cầu công chứng sẽ mời người làm chứng; nếu không mời được, công chứng viên sẽ chỉ định người làm chứng. Như vậy, khi người yêu cầu công chứng không thể thực hiện các hành vi như đọc, nghe, ký, hoặc điểm chỉ, hoặc trong các tình huống đặc biệt khác, việc công chứng phải có người làm chứng để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người yêu cầu công chứng.
Theo Công văn số 935/BTTP-CC Về việc thực hiện khoản 2 Điều 47 của Luật Công chứng 2014, quy định tại khoản 2 Điều 47 Luật Công chứng có thể hiểu là: Việc công chứng phải có người làm chứng nếu một trong các điều kiện như không đọc được, không nghe được, không ký, hoặc không thể điểm chỉ, hoặc trong những tình huống khác theo pháp luật quy định.
- Khi người yêu cầu công chứng không thông thạo tiếng Việt, họ cần có sự trợ giúp từ người phiên dịch. Người phiên dịch phải từ đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, thành thạo tiếng Việt và ngôn ngữ của người yêu cầu công chứng. Người yêu cầu công chứng sẽ mời người phiên dịch và người phiên dịch sẽ chịu trách nhiệm pháp lý về công việc của mình. Đối với trường hợp người yêu cầu công chứng là người nước ngoài hoặc không hiểu tiếng Việt, pháp luật không yêu cầu phải có người làm chứng nhưng yêu cầu có người phiên dịch để giúp người yêu cầu hiểu đầy đủ nội dung công chứng. Người phiên dịch sẽ do người yêu cầu công chứng mời và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc phiên dịch.
3. Người làm chứng cho người yêu cầu công chứng không biết đọc chữ phải từ bao nhiêu tuổi trở lên?
Như đã được phân tích trước đó, đối với những người yêu cầu công chứng không biết đọc chữ, không thể nghe hoặc không thể điểm chỉ, công chứng yêu cầu phải có sự tham gia của người làm chứng.
Theo khoản 2 Điều 47 Luật Công chứng 2014, quy định rõ ràng về người làm chứng trong trường hợp này, theo đó người làm chứng phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không có quyền lợi hoặc nghĩa vụ liên quan đến việc công chứng.
Vậy, theo các quy định hiện hành của pháp luật, người làm chứng cho người yêu cầu công chứng không biết đọc chữ phải đáp ứng các điều kiện sau:
+ Người làm chứng phải từ đủ 18 tuổi trở lên.
+ Ngoài độ tuổi yêu cầu, người làm chứng cho người yêu cầu công chứng không biết đọc chữ cần phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Theo Điều 19 Bộ Luật Dân sự 2015, "Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân tự mình xác lập và thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự."
+ Bên cạnh đó, người làm chứng phải không có quyền, lợi ích hoặc nghĩa vụ liên quan đến việc công chứng.
Có thể khẳng định rằng, pháp luật quy định người làm chứng cho người yêu cầu công chứng không thể đọc chữ phải từ đủ 18 tuổi trở lên, đồng thời phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không có quyền, lợi ích hoặc nghĩa vụ liên quan.
Trên đây là một số vấn đề pháp lý liên quan đến người làm chứng cho người không biết đọc. Để hiểu rõ hơn, bạn có thể tham khảo: Thủ tục công chứng cho người không biết chữ, biết đọc, biết viết.